Tấm bia mộ và hai tác phẩm đầu tiên viết về Việt Nam bằng tiếng Phần Lan
Đó là nghĩa trang Hietaniemi, một nghĩa trang lớn và đẹp nằm ven biển, ngay sát trung tâm Helsinki. Mỗi lần có dịp đến nghĩa trang này, chúng tôi thường đến thăm khu cũ. Bởi nơi đây không chỉ có bia tưởng niệm những người đã mất ở phương xa mà còn là khu vực yên nghỉ của các văn nghệ sĩ nổi tiếng của Phần Lan với những bia mộ rất đơn giản nhưng hết sức độc đáo và đa dạng, phản ảnh khá rõ nét văn hóa, thẩm mỹ và lối sống của người Phần Lan. Có thể coi nghĩa trang này như là nơi trưng bày những tác phẩm nghệ thuật không chỉ dành cho những người đã khuất mà cho cả những người còn sống.
Từ tấm bia mộ độc đáo trong nghĩa trang thành phố
Trong số rất nhiều bia mộ với kiểu dáng, kích cỡ, chất liệu khác nhau chúng tôi chú ý đến một bia mộ rất đơn sơ, song hết sức đặc biệt, nằm trên một đồi đất. Phía sau vài khóm hoa dại thấp, xen giữa đám cỏ là một hòn đá tự nhiên màu nâu nhạt, không đẽo gọt, trên đó chỉ khắc mấy chữ in: RINTALA. Bên cạnh là một cuốn sách mở cũng bằng đá cùng màu, trên cả hai trang đều có ghi chữ và các con số. Lúc đầu chúng tôi chỉ chú ý đến sự độc đáo của cuốn sách vì nó phản ảnh sự ham đọc của người Phần Lan, như từng thấy ở khắp mọi nơi ở nước này. Nhưng khi kết nối dòng chữ được khắc trên hòn đá với những chữ và số ghi trong hai trang của cuốn sách bên cạnh, chúng tôi mới phát hiện ra những điều hết sức thú vị và rất đáng chú ý về người có bia mộ này. Đó là bia mộ của nhà văn Paavo Rintala và vợ là Raili O.S. Pihkala.
Paavo Rintala sinh ngày 20.9.1930 ở Viipuri, một thành phố lớn ở phía đông nam Phần Lan (cách Helsinki chừng 250km) nhưng từ năm 1944 thuộc về Liên bang Xô Viết. Năm 1940, Rintala cùng mẹ và gia đình bên ngoại (cha ông hy sinh trong cuộc chiến mùa đông) chạy tị nạn chiến tranh, đến sống ở Oulu, một thành phố miền trung-tây Phần Lan, cách Helsinki 600km. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 1951, ông gia nhập quân đội, sau đó vào học văn học và thần học tại trường Đại học tổng hợp Helsinki. Năm 1955 ông kết hôn với Raili Pihkala và năm 1960 hai người chuyển về sống ở Kirkkonummi cho đến lúc qua đời năm 1999.
Paavo Rintala được đánh giá là “một trong những nhà văn Phần Lan xuất sắc nhất đã xử lý kinh nghiệm chiến tranh và sự suy giảm các giá trị đạo đức trong xã hội hiện đại”. Kể từ tiểu thuyết đầu tay được xuất bản (1954) đến tác phẩm cuối cùng (1996), Rintala đã đóng góp cho văn học Phần Lan 44 tiểu thuyết và tập truyện ngắn, 1 tác phẩm dịch, 3 kịch bản phim và hàng chục kịch bản sân khấu, truyền thanh. Ông đã nhận được 10 giải thưởng văn học, trong đó có 6 giải thưởng nhà nước.
Nhưng Rintala được biết đến nhiều hơn trong giới văn sĩ Phần Lan như là một nhà văn tiêu biểu, mạnh dạn lên tiếng và có nhiều đóng góp trong phong trào bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh, trong đó có chiến tranh ở Việt Nam. Việc Rintala có quan điểm nhân văn, phản đối chiến tranh và tích cực đấu tranh cho hòa bình bắt nguồn từ việc ngay từ hồi nhỏ ông đã là nạn nhân của chiến tranh và phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh khi mới 9 tuổi. Năm 1969, Rintala được tổ chức Bảo vệ Hòa bình Phần Lan (được thành lập vào năm 1949), bầu làm chủ tịch và ông đã giữ cương vị đó cho đến năm 1974. Cùng thời gian đó, tổ chức này thành lập Nhóm Việt Nam nhằm tổ chức các hoạt động ủng hộ đất nước đang có chiến tranh do Rintala lãnh đạo. Năm 1971 Hội Hữu nghị Phần Lan-Việt Nam ra đời và Rintala trở thành chủ tịch đầu tiên của Hội cho đến năm 1973.
Đến hai tác phẩm đầu tiên về Việt Nam của văn học Phần Lan
Ngoài những hoạt động xã hội trên cương vị là một nhà lãnh đạo của Ủy ban bảo vệ Hòa bình Phần Lan đồng thời là chủ tịch của Hội Phần Lan-Việt Nam, là một nhà văn Paavo Rintala đã có những đóng góp thiết thực, rất đáng trân trọng cho phong trào ủng hộ Việt Nam của người dân Phần Lan vào những năm 1965-1975 bằng các sáng tác của mình. Năm 1970 Paavo Rintala xuất bản Vietnamin kurjet (Những con sếu Việt Nam), tác phẩm đầu tiên về Việt Nam được viết bằng tiếng Phần Lan.
Những con sếu Việt Nam là kí sự của tác giả về thái độ, suy nghĩ của người dân Phần Lan đối với cuộc chiến tranh Việt Nam dựa trên kết quả các cuộc phỏng vấn của ông với hàng trăm người Phần Lan thuộc các tầng lớp xã hội, đảng phái khác nhau từ nông thôn đến thành thị trong cả nước. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng tư liệu từ báo chí, phát thanh và truyền hình trong và ngoài nước, trong đó có phóng sự “Trip To Hanoi” của Susan Sontag (1968) vả bộ phim tài liệu “Piloten im Pajama” (1968) của hai đạo diễn Cộng hòa Dân chủ Đức, Walter Heynowski và Gerhard Scheumann. Cuốn sách còn có phụ lục với ảnh chân dung lẫn “trích ngang” của 11 phi công Mỹ bị bắn rơi trên vùng trời miền Bắc Việt Nam và những cột mốc quan trọng của lịch sử Việt Nam trong thời gian từ 1940-1969. Mãi đến cuối sách, người đọc mới được tiết lộ rằng mối liên hệ với thảm kịch Việt Nam được hình thành đối với tác giả thông qua trải nghiệm di tản của chính ông ngày niên thiếu.
Mở đầu cuốn sách Những con sếu Việt Nam, Rintala trích dẫn lại hai câu được dịch ra tiếng Phần Lan giống hệt nhau, được tác giả ghi là của Ernest Hermingway (nhà văn Mỹ) trong tác phẩm “Chuông nguyện hồn ai” và đại tướng Võ Nguyên Giáp, chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ: “Jos me voitamme täällä, me voitamme kaikkialla” (Nếu chúng tôi chiến thắng ở đây, chúng tôi sẽ chiến thắng trên mọi mặt trận).
Tác giả cho biết tên của cuốn sách được lấy ý tưởng từ một câu nói của hoạ sĩ Picasso “Con chim bồ câu trắng vĩ đại như nỗi buồn bao trùm trên trái đất”. Rintala nói rằng ông chưa bao giờ nhìn thật gần một con chim bồ câu, thay vào đó ông đã một lần biết một con sếu. Con sếu ở đây được lấy từ tấm ảnh một cậu bé mà tác giả đặt tên là Phạm, được in trong sách, nằm che cho em mình. Từ hình ảnh cậu bé này Rintala đã liên tưởng đến hàng loạt trẻ em khác ở Việt Nam cũng như nhiều nơi khác trên thế giới, giống như chính tác giả thời còn niên thiếu từng phải di tản vì chiến tranh. Ông đã so sánh cuộc thảm sát của lính Mỹ ở Mỹ Lai với vụ đánh bom hàng loạt làng mạc và thị trấn trong Nội chiến Tây Ban Nha và vụ đánh bom hàng loạt đô thị ở Đức và Anh trong Thế chiến thứ hai. Vào thời điểm ra đời, Những con sếu Việt Nam của Rintala như một ngọn đuốc thổi bùng thêm ngọn lửa phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam của người dân Phần Lan, đặc biệt là giới trẻ.
Bốn năm sau Những con sếu Việt Nam, năm 1974, Rintala cho ra đời tác phẩm thứ hai viết về Việt Nam của mình, cũng là tác phẩm thứ hai về Việt Nam của văn học Phần Lan, có tên “Romeo ja Julia häränvuona” (Romeo và Juliet năm sửu). Đây là cuốn tiểu thuyết được Rintala hoàn thành sau chuyến thăm Việt Nam vào đầu năm 1974 trong phái đoàn Bảo vệ Hòa bình Phần Lan. Ý tưởng về cuốn sách đã hình thành từ trước, song một tuần ở Việt Nam, được chứng kiến và tiếp xúc với người thực, việc thực không chỉ ở Hà Nội mà một vài địa phương khác đã giúp Rintala có thêm tư liệu thực tế để hoàn thành cuốn sách.
Khung cảnh của tiểu thuyết là Hà Nội và các vùng lân cận vào thời điểm xảy ra các cuộc ném bom của Mỹ năm 1972, khi năm Tý đang chuyển sang năm Sửu. Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết là đôi bạn trẻ người Việt, Ngô Sơn và Thị Lí. Ngoài ra còn có ba người nước ngoài là Einar Jaervi, một chuyên gia về các bệnh nhiệt đới người Na Uy gốc Phần Lan, Bohdan, một đồng nghiệp đến từ Warsaw và Mila đến từ Nga. Các thành viên của nhóm thiện nguyện châu Âu phải trải nghiệm sự ác liệt của chiến tranh. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, ngay cả giữa tuyệt vọng và cái chết, cuộc sống vẫn tiếp diễn. Ngô Sơn, con trai của một nhà thơ và là người có tâm hồn lãng mạn sau đó bị mù và cô giáo làng Thi Li bị mất một chân đã tìm đến đến với nhau và quyết định cùng nhau xây dựng tổ ấm.
Paavo_Rintala_Sách |
Năm 1977, Rintala nói với báo chí Phần Lan rằng Romeo và Juliet năm sửu như là một ghi chép du lịch của ông dưới dạng tiểu thuyết. Ông còn cho biết rất sốc khi chứng kiến di sản văn hóa vô cùng lâu đời và phong phú ở Việt Nam đã bị chiến tranh tàn phá như thế nào. Đặc biệt ông bày tỏ sự lo lắng trước những di sản vật thể hàng ngàn năm tuổi bị phai mờ vì khí hậu, thời gian, chỉ có di sản tinh thần như thơ, ca được lưu giữ. Trong tác phẩm này ông đã đưa vào rất nhiều điều ngạc nhiên của ông về di sản văn hóa của người Việt, như đình chùa, tượng Phật, truyền thuyết và thơ ca dân gian. Trong đó một chương mang tên “Sơn tinh và Thủy tinh” có nói đến chùa Phổ Minh dài tới 11 trang dưới hình thức thơ.
Romeo và Juliet năm sửu đã nhận được sự đánh giá cao trên các báo Phần Lan. Một số nhà phê bình cho rằng tiểu thuyết được coi là một “tác phẩm mang tính nhân văn toàn cầu” và thể hiện “tinh thần lạc quan, tích cực của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thông qua việc ca ngợi cảnh quan và văn hóa, lối sống Việt Nam.”
Mặc dù Rintala muốn phân biệt giữa công việc của một nhà văn và các hoạt động xã hội, nhưng trong các tác phẩm của mình, ông đã thể hiện như một nhân chứng đương đại có ý thức lịch sử trong các lĩnh vực mỹ học, đạo đức và chính trị. Không nghi ngờ gì, cùng với các hoạt động tích cực trong vai trò chủ tịch của Ủy ban Hòa bình Phần Lan (1969-1974), chủ tich Hội Phần Lan-Việt Nam (1971-1972) hai tác phẩm đầu tiên viết về Việt Nam bằng tiếng Phần Lan của Paavo Rintala đã đưa ông trở thành đại diện hàng đầu trong phong trào đấu tranh vì hòa bình và đoàn kết với Việt Nam. Ngày nay cũng như sau này khi nói đến những người bắc cầu cho quan hệ hữu nghị Phần Lan-Việt Nam, không thể không nhắc đến nhà văn Paavo Rintala như một kiến trúc sư và cũng là người thợ.
Võ Xuân Quế