Những ngày sóng gió
Đồng chí Lê Giản (tên thật Tô Gĩ) nguyên là Phó Giám đốc Sở Liêm phóng Bắc Bộ, Giám đốc Nha Công an Trung ương, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Đồng chí Lê Giản thời trẻ |
Đầu năm 1940 khi đang hoạt động bí mật ở Hải Phòng, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt đày biệt xứ đến Karianga thuộc đảo Madagascar (châu Phi) cùng 6 đồng chí khác[1]. Tháng 11/1942, quân đội Anh chiếm lại được Madagascar đã trả tự do cho nhóm lưu đày. Để tìm cách trở về nước hoạt động, với sách lược khôn ngoan, ông cùng các đồng chí của mình tình nguyện tham gia quân Đồng minh chống phát xít. Về nước, ông được Trung ương Đảng và Bác Hồ tin tưởng giao nhiều nhiệm vụ quan trọng thời kỳ cách mạng còn trứng nước.
Trên cương vị đứng đầu ngành Công an, ông đã đóng vai trò tích cực để bảo vệ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, đã chỉ đạo phá vụ án phố Ôn Như Hầu nổi tiếng. Nhân kỷ niệm 75 năm Quốc khánh 2/9, xin trân trọng giới thiệu trích đoạn Hồi ký “Những ngày sóng gió” của đồng chí Lê Giản kể về việc ông và các đồng chí đã lợi dụng để quân Đồng minh đưa về nước và lãnh đạo phá vụ án phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).
Phá vụ án ở số 7 phố Ôn Như Hầu
Đêm 11/7/1946, tại trụ sở Nha Công an Việt Nam, tôi, anh Nguyễn Tạo... không thể nào ngủ được. Đầu óc vô cùng căng thẳng, cứ thay nhau hết đứng lại ngồi xuống hoặc đăm chiêu đi lại quanh phòng. Chốc chốc chuông điện thoại lại réo lên: Tin trinh sát từ các nơi báo về.
Một giờ khuya, chúng tôi ngồi quây quần quanh chiếc bàn, hội ý. Các nguồn tin được chắp nối, liên hệ với nhau để tổng hợp, phân tích. Biết bao câu hỏi, biết bao giả thiết đặt ra: Có đúng kẻ địch âm mưu bạo động cướp chính quyền không? Hay đây là quỷ kế chúng lừa ta rơi vào trong khiêu khích để phá Hội nghị Fontainebleau? Xét lại Minh là người thế nào? Liệu có thể tin anh ta được không? Các vụ việc trước anh ta báo với ta kịp thời chính xác, nhưng cũng có thể kẻ địch cũng cao tay dùng ngay chính Minh để hại ta. Các tin trước dùng để chuẩn bị cho cú đánh lừa này lắm chứ?...
Tất nhiên mọi tình huống phải đặt ra và lường đoán trước tất cả như thế để có biện pháp đối phó. Song trong thâm tâm chúng tôi tin âm mưu kẻ địch chuẩn bị bạo động là có thật. Nếu vậy, không trấn áp, không bóp chết ngay âm mưu đó từ trong trứng thì hậu quả sẽ vô cùng to lớn, nhất là giữa lúc chính quyền ta còn rất non trẻ, lực lượng ta có hạn, cả đối nội và đối ngoại ta đang gặp khó khăn. Nhưng không tỉnh táo, mắc mưu địch để nó tạo cớ cho Pháp đánh ta, hoặc phá hoại Hội nghị Fontainebleau thì chắc chắn không tránh khỏi bị kỷ luật. Mà chắc chắn là kỷ luật rất nặng.
Vậy thì làm thế nào? Chịu bó tay thoái thác trách nhiệm sao?
Cuối cùng chúng tôi quyết định: Chấp hành chỉ thị của Trung ương, không tấn công trụ sở bọn Đại Việt quốc dân Đảng, mà chỉ dùng một lực lượng nhỏ, bằng phương pháp nghiệp vụ bí mật đột nhập, kiểm tra ngôi nhà 132 Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân – BTV), nơi mà chúng tôi nghi ngờ nhiều nhất, để tìm ra bằng chứng cụ thể. Nếu có xảy ra chuyện gì thì mấy chúng tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn.
Đêm ấy mấy anh em gần như thức trắng.
2 giờ 30 phút đêm 11 rạng ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an được chọn trong số những người giỏi võ do đồng chí Lê Hữu Qua phụ trách, xuất phát. Chiếc xe Jeep bon rất êm dọc đường Bà Triệu còn im lìm thiếp ngủ. Xe rẽ trái, rồi tắt máy, dừng lại gần số nhà 132 Duvigneau không một tiếng động mạnh. Mục tiêu đã được trinh sát kỹ, bởi vậy bằng phương pháp nghiệp vụ, chỉ trong nháy mắt các chiến sĩ của ta đã vượt qua cổng sắt và hàng rào dây thép gai đột nhập vào nhà. Mấy tên lính gác ôm súng trong tay ngồi ngủ gà ngủ gật liền bị khóa họng, nhét giẻ vào mồm và trói chặt. Anh em xông lên gác. Trong ánh sáng mờ mờ, hơn hai chục tên Đại Việt quốc dân Đảng mình trần, đang ngủ lay lắt giữa lối đi, trên sàn nhà, bên những chiếc máy còn chưa ráo mực. Ngổn ngang xung quanh từng tập truyền đơn, biểu ngữ, bố cáo... về cuộc bạo động xếp bề bộn. Có thứ đã bó lại chuẩn bị chuyển đi, có loại vừa in xong. Bằng những miếng võ điêu luyện, các đồng chí công an ta đã đánh gục, trói gọn tất cả bọn chúng, hầu như không tên nào kịp chống cự hoặc chạy thoát. Toàn bộ tài liệu được chất đầy một xe ô tô vận tải chở về Nha Công an. Bọn tội phạm bị hỏi cung tại chỗ để khai thác.
Qua các tài liệu thu được và lời khai của can phạm, chúng tôi khám phá ra kế hoạch bạo động đảo chính của bọn Đại Việt quốc dân Đảng, như sau: Ngày 14/7, nghĩa là hai ngày nữa, Pháp sẽ tổ chức lễ kỷ niệm Cách mạng dân quyền của chúng một cách thật rầm rộ. Quân đội Pháp được trang bị vũ khí chiến đấu diễu binh trên đường phố Hà Nội, đặc biệt khu vực Bắc Bộ Phủ. Bọn Đại Việt quốc dân Đảng sẽ cho người ném lựu đạn vào đội hình của Pháp. Trong bản thảo viết tay do Trương Tử Anh ký có ghi rõ và gạch dưới hàng chữ: “Ném vào chỗ lính da đen”. Bọn Pháp sẽ vin vào đó làm cớ đổ vấy cho Chính phủ ta cố tình khiêu khích đánh chúng. Và lập tức chúng sẽ huy động toàn bộ lực lượng của Pháp, của bè lũ phản cách mạng bao vây đánh úp vào các cơ quan đầu não của Đảng và Chính phủ ta, bắt giam các lãnh tụ, đồng thời bọn Đại Việt quốc dân Đảng tuyên bố đảo chính lập chính phủ mới. Bọn phản động ở các tỉnh đã chuẩn bị trước, sẽ nổi dậy hưởng ứng. Cố nhiên Hội nghị Fontainebleau sẽ bị phá, Bác và anh Phạm Văn Đồng cùng phái đoàn chính phủ ta sẽ bị Pháp bắt giữ...
Mưu mô của bọn Pháp và lũ Đại Việt quốc dân Đảng thật là quỷ quyệt.
Tôi còn nhớ, từ lúc tiểu đội công an do anh Lê Hữu Qua chỉ huy đi làm nhiệm vụ, tại phòng làm việc của tôi ở Nha Công an, mấy anh em rất nóng lòng chờ đợi kết quả. Đến khi thấy chiếc ô tô vận tải đến, phanh kít ngoài cổng và một đồng chí ôm một tập truyền đơn, hiệu triệu chạy lên báo cáo, chúng tôi mừng quá, ôm chầm lấy nhau, tung mũ, tung khăn lên cao. Sung sướng quá. Âm mưu đảo chính của bọn Pháp câu kết với lũ tay sai phản động đã bị khám phá. Đã có chứng cớ cụ thể và tang vật đây rồi. Tôi phóng ngay ô tô đến Bắc Bộ Phủ báo cáo với cụ Huỳnh Thúc Kháng. Lúc ấy mới độ gần 6 giờ sáng. (Hồi này, để đảm bảo an toàn, ban đêm anh Võ Nguyên Giáp thường ra những cơ sở của ta ngoài ngoại thành nghỉ, sớm hôm sau mới vào cơ quan làm việc. Tôi đoán giờ này chắc anh chưa tới). Nghe người vào báo cáo có tôi tới trình việc gấp, cụ Huỳnh vội dậy, ra ngay. Cụ đeo mục kỉnh lên, đọc rất nhanh mấy tờ truyền đơn, hiệu triệu... Mắt cụ sáng long lanh đầy căm giận. Rồi bằng giọng nghiêm khắc ít thấy, cụ vừa đập đập đầu ba-toong xuống sàn nhà, vừa ra lệnh cho tôi: “Diệt! Diệt hết lũ chúng nó. Quân bán nước. Đồ chó má”. Tôi vội vã đi báo cáo anh Giáp và được phép hành động ngay: Tổ chức lực lượng tấn công các trụ sở của bọn Quốc dân Đảng ở Hà Nội, cùng các tỉnh khác.
7 giờ sáng, các đội công an của ta xuất phát. Tại ba trụ sở của Quốc dân Đảng ở phố Thiền Quang, cuộc chiến đấu diễn ra dữ dội. Đây trước có một tên võ quan Nhật làm cố vấn và lớp huấn luyện gồm hơn 70 tên. Chúng thường được tung đi rải truyền đơn, khiêu khích, tống tiền, cướp của, giết người. Địch dùng súng máy bắn trả công an rất kịch liệt. Mãi tới khi ta huy động thêm hỏa lực bố trí từ trên các nhà cao tầng xung quanh áp đảo, chúng mới chịu đầu hàng.
Tại cơ sở số nhà 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều) cuộc chiến đấu cũng khá gay go. Cầm đầu bọn ở đây là tên Phan Kích Nam, Ủy viên Trung ương của Việt Nam Quốc dân Đảng. Tên thật của hắn là Phan Xuân Thiện, con đỡ đầu, đúng ra là tay sai của một linh mục đạo Tin lành người Mỹ. Thiện thường vỗ ngực khoe khoang mình nói tiếng Anh như người Mỹ New York. Từ thời còn là học sinh Trường Quốc học Huế, hắn đã nổi tiếng ăn chơi bạt tử và ngổ ngáo coi trời bằng vung. Chiếc mũ trên đầu luôn luôn đội ngược phía sau ra phía trước, thích mặc quần ta để ống thấp, ống cao. Sau ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, hắn tưởng có cơ hội làm ăn, năn nỉ tìm mọi cách xin vào làm việc tại Ban Chỉ huy Việt Minh. Bị ta từ chối, hắn từ Huế ra Hà Nội, và không bao lâu hắn đã leo tới chức ủy viên trung ương của các đảng phái phản động của bọn Vũ Hồng Khanh.
Phan Kích Nam là một trong số 70 tên mà bọn Việt Nam Quốc dân Đảng đưa vào Quốc hội. Hắn được cái đảng phản cách mạng đó giao cho tổ chức và chỉ huy “Đệ nhất chiến khu” gồm các tỉnh miền Trung Bộ mà trụ sở đóng tại số 7 phố Ôn Như Hầu (Hà Nội). Nhiều tài liệu ta thu được đã xác nhận rõ hắn nhúng tay vào nhiều hành động bỉ ổi, dã man: Chủ trương và chỉ huy các vụ tống tiền, bắt cóc, cướp của giết người, ám sát... Chính nghị Liên vốn là một nghị viên dân biểu thời Pháp, đã tố cáo hắn về tội định giết người cướp của.
Sau Cách mạng Tháng Tám, để tránh phong trào ở nông thôn, nghị Liên muốn ra ở Hà Nội, nên đăng báo cần mua nhà. Phan Kích Nam đọc được mục “rao vặt” ấy, đoán Liên giàu lắm, liền cho quảng cáo là mình có bán nhà. Sau đó hắn cho tay chân cầm tờ báo tới gặp Liên giả làm môi giới, rủ nghị Liên đi xem nhà. Nghị Liên tưởng thật, theo luôn và được “mời” tới số 7 phố Ôn Như Hầu. Trước hết nghị Liên bị trói lại, Phan Kích Nam lấy thanh kiếm xin được của Nhật, vẫn dùng để giết người, kề vào cổ nghị Liên, bắt Liên viết một bức thư về cho vợ, nói rằng bị công an ta bắt cóc phải đem ba vạn đồng (tiền Đông Dương) tới khách sạn X... phòng Y... giao cho người thế này... Nếu không sẽ bị công an giết.
Âm mưu của Phan Kích Nam vừa nhằm tống tiền, vừa nhằm làm mất uy tín của Công an ta.
Khi ta đến bắt tại trụ sở phố Nguyễn Du, Phan Kích Nam giơ thẻ Quốc hội ra kiên quyết chống lại và tố cáo công an ta vi phạm pháp luật. Ta khôn khéo mời hắn qua số nhà số 7 phố Ôn Như Hầu. Hắn chịu đi. Đến đây bỗng một người dân nhận ra Phan Kích Nam là tên sát nhân liền xông vào tố cáo, vạch mặt định đánh. Phan Kích Nam giơ kiếm chống lại liền bị đồng chí Lê Hữu Qua quật ngã, trói ngay. Bắt về Sở Công an Bắc Bộ hắn vẫn hùng hổ đòi ta thả ngay để hắn đi gặp Chính phủ. Cho đến khi ta đưa nghị Liên tới thì mặt Phan Kích Nam bỗng tái đi, đầu cúi gầm xuống không dám nói một câu nào.
Cũng tại số nhà số 7 phố Ôn Như Hầu, công an ta nghe tiếng kêu cứu rất thảm thiết phía nhà bếp liền chạy xuống thì thấy một người bị trói nằm lăn lóc dưới đất. Đó là anh hàng giò. Hôm trước anh đi qua đây, bọn chúng gọi anh vào bán. Chúng ăn hết cả thúng giò, có bao nhiêu tiền trong túi anh chúng cũng lột nốt. Anh bị trói chặt đợi thủ tiêu. Cùng bị trói nằm trong xó nhà bếp với anh hàng giò còn một người lính Quốc dân Đảng chúng nghi làm phản. Người lính đó cho biết, ở đây đêm nào chúng cũng bắt người về tra tấn trong một căn buồng riêng mà chúng gọi là “Ban nghiên cứu”. Mỗi khi tra khảo sợ nạn nhân kêu to, người đi đường có thể nghe thấy, bọn sát nhân vặn máy hát kêu thật to, át đi hoặc cùng nhau hò hét loạn lên. Nhiều đêm anh thấy chúng hỳ hục mãi trong vườn không biết chúng cất giấu cái gì.
Nhà số 7 phố Ôn Như Hầu này mới vào cũng có thể nhận ra cách bố trí theo kiểu sào huyệt một ổ cướp chuyên nghiệp. “Ban nghiên cứu” là gian phòng tắm chật chội, kín mít, trong để nhiều dụng cụ tra tấn: Bình điện, roi song, búa, kìm... và trên tường bê bết máu.
Ngoài vườn có một bụi chuối và mấy đám cỏ xanh tốt khác thường. Công an ta đào lên. Mới bổ mấy nhát cuốc đã thấy một chỗ ba xác người mới bị giết. Dã man hơn, chúng chặt xác họ thành từng mảnh bỏ dồn vào một đống. Đào tiếp ra rộng hơn lại thấy xác bốn người nữa, thịt đã bắt đầu thối, nhưng vẫn còn nhận được và có thể tìm ra tung tích.
Từ khắp nơi, nhân dân nghe nói đào thấy nhiều xác chết ở số 7 phố Ôn Như Hầu liền kéo đến rất đông. Đồng bào vừa khóc vừa xông vào để tìm dấu vết người thân. Sự phẫn nộ bùng cháy, đồng bào kêu thét, xông vào toan xé xác bọn sát nhân. Công an ta phải vất vả lắm mới giữ được trật tự.
Đồng chí Lê Giản lúc cao niên |
Việc tìm ra vết tích những người bị giết đã vạch trần bộ mặt ghê tởm của bọn phản cách mạng Quốc dân Đảng. Trong số bốn xác mới bị giết còn nhận diện được có một anh đạp xe xích lô. Theo lời khai của bọn thủ phạm thì chúng thuê anh này chở đi dạo mát quanh Hồ Gươm. Khi về thấy túi anh căng vẻ nhiều tiền, chúng liền giết quăng xe xuống hồ Thiền Quang (chiếc xe mà Công an ta tìm được trước đó). Xác thứ hai là bà R. người đàn bà goá đó có một con nhỏ, thường đi làm qua đường này. Bọn Quốc dân Đảng tưởng bà có nhiều tiền. Một buổi tối chúng bắt cóc bà vào đây thay nhau hiếp, thấy không có tiền, chúng giết. Hầu hết những nạn nhân bị giết ở số 7 phố Ôn Như Hầu là như thế; bác đạp xích lô, người đàn bà góa, anh bán giò...
Những bằng chứng ấy, một lần nữa làm cho các chiêu bài giả hiệu “quốc gia”, “hải ngoại” của bọn Quốc dân Đảng bị quần chúng vứt bỏ và phỉ nhổ.
Căn nhà số 80 phố Quán Thánh là trụ sở và cơ quan báo chí của chúng. Tại đây, suốt ngày đêm chúng bắt những chiếc loa công suất lớn ra rả rêu rao về cái “chủ nghĩa quốc gia” của mình và trâng tráo xuyên tạc cách mạng.
Suốt ngày 12/7 vì chưa thấy ta tấn công, bọn đầu sỏ chuồn về tụ tập ở đây khá đông đủ. Có lẽ chúng tưởng ta sợ, vì đấy sát khu vực đóng quân của Pháp. Nhưng thật ra ta bao vây từ 8 giờ sáng hôm đó. Bọn Quốc dân Đảng dựa vào công sự kiên cố và tường đá dày tập trung hỏa lực bắn trả ta kịch liệt và bí mật cho người đi cầu cứu quân Pháp. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 10 giờ đêm mà ta vẫn chưa vào được. Nhân cơ hội ấy bọn chúng thiêu hủy hết tài liệu. Anh em ở ngoài nhìn vào thấy lửa cháy rừng rực mà sốt gan, sốt ruột. Bỗng xung quanh chỗ ta bố trí, đạn súng máy nổ liên hồi, rồi xe tăng của Pháp lù lù tiến đến chặn hai đầu. Đoàn đại biểu của ta trong “Phái đoàn liên kiếm” lập tức tới can thiệp. Bằng lý lẽ sắc bén, ta làm cho bọn Pháp ngượng ngùng vì chúng không có cớ gì mà nhúng tay vào công việc nội trị của ta. Mặt khác Pháp cũng không muốn phơi bày bộ mặt xấu xa của mình một cách quá trơ trẽn, nên đành phải rút lui. Nửa giờ sau, hỏa lực của ta được tăng cường áp đảo mạnh mẽ, và các chiến sĩ của ta dũng cảm tràn vào nhà. Toàn bộ lũ đầu sỏ Quốc dân Đảng như Xuân Tùng, Phan Khôi, Đỗ Đình Đạo... bị bắt sống. Trương Tử Anh trốn thoát, nhưng sau đó mấy tháng cũng bị bắt nốt.
Tại khu vực Quán Thánh còn có một trụ sở nữa của Trung ương Quốc dân Đảng đóng tại trường Yên Thành phố Đỗ Hữu Vị (nay là phố Cửa Bắc). Sau khi quét sạch bọn phản động, ta trả lại trường cho Nha học chính. Nhưng năm học đến, cửa trường mở, mà các bậc cha mẹ vẫn không ai dám cho con cái đến học. Chúng tôi cử người tới điều tra thì mới biết, thời gian qua bọn Quốc dân Đảng đã bắt nhiều người mang đến đây giết và chôn tại đó. Ta lại đào, tìm. Ngay sân trường, dưới lớp cỏ xanh thẫm có hai xác người bị chặt làm đôi, một đàn ông, một đàn bà. Cũng như ở số 7 phố Ôn Như Hầu, khi nghe tin đào thấy xác người trong trụ sở Trung ương Quốc dân Đảng, đồng bào kéo tới rất đông. Mọi người vô cùng phẫn nộ. Tiếng khóc, tiếng nguyền rủa, tiếng hô đả đảo ầm ầm. Đồng bào yêu cầu ta xử tử ngay bọn đầu sỏ Quốc dân Đảng ta vừa bắt được.
Đúng dịp đó Bộ Nội vụ đang tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt của các ủy ban nhân dân tỉnh từ Quảng Nam, Quảng Ngãi trở ra. Mọi người đã đến tận nơi chứng kiến tội ác man rợ của bọn Quốc dân Đảng giữa sào huyệt của chúng. Sau đó các đại biểu được nhận những bộ ảnh chụp tại chỗ vụ này đem về triển lãm ở địa phương.
Đến đây, dẫu là những người ngây thơ về chính trị, còn bị chút ít nào đó sự mê hoặc của các thứ “ái quốc” mà bọn phản động nêu ra, đều được tỉnh ngộ. Bọn Quốc dân Đảng cũng như các tố chức phản động khác đã lộ nguyên hình là lũ côn đồ, bán nước hại dân. Những tên đầu sỏ đã bị bắt. Những tên còn lại đi tới đâu cũng bị nhân dân vạch mặt, tống ra khỏi nhà hoặc bắt giao nộp Công an trừng trị. Vài ba tên chạy vào các đồn binh của Pháp trốn thoát, thì sau này hoặc đi làm bồi bếp, hoặc lê la hầu hạ, kiếm ăn bên bàn đèn của bọn giặc Tưởng.
“Cuộc trấn áp ngày 12/7/1946 là đòn trừng phạt sấm sét đánh gục bọn phản động Quốc dân Đảng phản động để bảo vệ chính quyền cách mạng còn rất non trẻ”. (Lê Giản – Nguyên Giám đốc Nha Công an Trung ương) |
Từ sau ngày 12/7/1946, đến khi kỷ niệm quốc khánh của Pháp, tuyệt nhiên không thấy ngài Sainteny đến khẩn khoản xin diễu binh như trước nữa.
Có thể nói, cuộc trấn áp ngày 12/7/1946 là đòn trừng phạt sấm sét đánh gục bọn phản động Quốc dân Đảng phản động để bảo vệ chính quyền cách mạng còn rất non trẻ.
Những ngày đầy gian khổ và sóng gió của cách mạng tạm lắng xuống.
Buổi sớm, như thường lệ, chúng tôi lại tập trung làm việc tại trụ sở Nha Công an Việt Nam. Ngoài kia bầu trời mùa thu cao và xanh biếc. Hương hoa sữa nồng nàn lùa qua cửa sổ vào phòng. Tiếng chim ríu rít reo vui. Bình minh bừng lên rực rỡ.
LÊ GIẢN
Nguyên Giám đốc Nha Công an Trung ương
[1] 6 đồng chí gồm: Hoàng Đình Giong, Phan Bôi, Vũ Văn Địch (tức Trần Hiệu), Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Phòng (tức Nguyễn Văn Minh), Đoàn Ngọc Rê (tức Dương Công Hoạt).