Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Tài:
Lửa thử vàng gian nan thử sức
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) Nguyễn Tài tên thật là Nguyễn Tài Đông, sinh năm 1926 tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Làng Xuân Cầu đối diện với làng tôi ở bên kia Quốc lộ 5, đất ấy địa linh nên mỗi thước đất đều in dấu những con người hào kiệt.
Thời phong kiến, làng Xuân Cầu có tới 11 người đỗ Đại khoa. Xuân Cầu là quê hương của những nhà cách mạng xuất sắc mà tầm vóc và ảnh hưởng còn mãi với thời gian. Thế hệ thứ nhất có thể kể đến các nhà cách mạng như Tô Chấn, Tô Hiệu, Tô Gĩ (Lê Giản)[1], Tô Điểu, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Văn Lương (Nguyễn Công Miều, em trai nhà văn Nguyễn Công Hoan). Thế hệ thứ hai là các Anh hùng LLVTND Tô Quyền, Anh hùng LLVTND Nguyễn Tài. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (năm 1951) giữa núi rừng Việt Bắc, trong 158 đại biểu chính thức thì có 5 đại biểu là người làng Xuân Cầu[2]. Làng Xuân Cầu có nhà văn - nhà giáo Nguyễn Công Hoan và họa sỹ Tô Ngọc Vân được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh danh giá. Hiện tại làng Xuân Cầu có hai Nhà tưởng niệm hai chiến sỹ cách mạng xuất sắc là Tô Hiệu và Lê Văn Lương.
Anh hùng LLVTND Nguyễn Tài là con thứ hai của nhà văn Nguyễn Công Hoan; có chú là Nguyễn Công Miều (tức đồng chí Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, chú là Nguyễn Công Bông bị đày lên Sơn La, chú là Nguyễn Công Mỹ làm Tổng Giám đốc Nha Bình dân học vụ, anh ruột là Nguyễn Tài Khoái hy sinh năm 1947…
Anh hùng Nguyễn Tài. |
Tiếp nối truyền thống gia đình, Nguyễn Tài tham gia cách mạng rất sớm. 18 tuổi, Nguyễn Tài gia nhập Đoàn Thanh niên cứu quốc, đến tháng 3/1945 thì được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Giỏi văn chương, báo chí, Nguyễn Tài được đồng chí Võ Nguyên Giáp giới thiệu vào làm biên tập và phụ trách in tại Tòa soạn báo Nước Nam mới, cơ quan của Khu Giải phóng Tân Trào. Phát hiện tố chất của ông, các đồng chí lãnh đạo đã hướng lái và đào tạo để ông trở thành một sỹ quan an ninh. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đồng chí Nguyễn Tài về làm việc tại Sở Công an Bắc Bộ. Tháng 10/1946 đồng chí Nguyễn Tài là người đại diện Sở Công an bắc Kỳ trực tiếp làm việc với Sở Kiểm duyệt Bắc Kỳ xin giấy phép cho ra Báo Công an mới, tiền thân của Báo Công an nhân dân ngày nay. Báo Công an mới xuất bản số đầu tiên ngày 1/11/1946.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, Liên khu I của ta đã bị Pháp bao vây, cắt đứt giao liên với bên ngoài. Một số tuyến giao liên vào Liên khu I được tổ chức nhưng không thành. Sau khi khảo sát, nghiên cứu, đồng chí Nguyễn Tài khi ấy là Phó ty Công an Hà Nội đã cử 2 chiến sĩ giao liên từ Tứ Liên theo bờ sông Hồng, qua gầm cầu Long Biên vào nội thành bắt liên lạc với Trung đoàn Thủ đô. Từ con đường táo bạo này, giao liên đã đưa đồng chí Trần Quốc Hoàn - Bí thư xứ ủy Bắc Kỳ và đồng chí Lê Giản - Giám đốc Nha Công an Trung ương vào động viên các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô. Cũng chính con đường này, ngày 17/2/1947, giao liên đã đưa Trung đoàn Thủ đô ra bến Tứ Liên, lên thuyền qua sông Hồng trót lọt. Đồng chí Phạm Hùng trong một hội nghị ở Nha Công an Trung ương đã nhận xét về đồng chí Nguyễn Tài như sau: “Ở Nam Bộ cũng có những anh em trẻ như Nguyễn Tài, nhưng tích lũy kinh nghiệm dày dặn như Nguyễn Tài thì rất hiếm”. Với tài năng xuất sắc ấy, 21 tuổi đồng chí Nguyễn Tài đã được bổ nhiệm làm Trưởng ty Công an Hà Nội và trở thành ủy viên Đặc khu ủy Hà Nội khi mới bước vào tuổi 24. Năm 1958, ở tuổi 32, đồng chí Nguyễn Tài được bổ nhiệm Cục trưởng Cục Bảo vệ Chính trị nội bộ, Bộ Công an, tiền thân của Tổng cục An ninh và Tổng cục Tình báo sau này. Nói về đồng chí Nguyễn Tài trong giai đoạn này, nhiều thế hệ cán bộ công an đều đánh giá, những bài giảng của ông đã góp phần quan trọng tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về chất của lực lượng bảo vệ chính trị toàn miền Bắc và họ đã trưởng thành từ sự đào tạo của ông.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhiều toán biệt kích, gián điệp Sài Gòn được tung ra miền Bắc. Đồng chí Nguyễn Tài được lãnh đạo Bộ Công an giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy toàn diện cuộc chiến chống gián điệp, biệt kích, góp phần làm thất bại âm mưu phá hoại miền Bắc của đối phương. Bằng tài trí của một sỹ quan an ninh, ông đã chỉ đạo các tỉnh phát động phong trào toàn dân chống gián điệp, biệt kích, đồng thời, trực tiếp chỉ huy lực lượng công an tiến hành “trò chơi nghiệp vụ” mang lại nhiều hiệu quả trong đối phó với kẻ thù. Từ năm 1960 đến năm 1970, có khoảng 500 tên gián điệp, biệt kích nằm trong “trò chơi nghiệp vụ” của Bộ Công an đã bị ta bắt, khống chế.
Trước tình hình miền Nam có nhiều biến động, đầu năm 1964 đồng chí Nguyễn Tài xung phong vào chiến trường miền Nam. Ngày 21/3/1964 ông vào Nam bằng đường biển trên một chuyến tàu không số. Tính đến thời điểm đó, ông là lãnh đạo cấp cao nhất của ngành Công an vào Nam trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Đồng chí Nguyễn Tài được Bác Hồ rất tin tưởng, từng theo bảo vệ Bác trong nhiều chuyến công du nước ngoài. Nhiều người kể lại rằng, khi hay tin đồng chí Nguyễn Tài xung phong vào Nam, Bác Hồ đã gửi một bức điện vào miền Nam với nội dung: “Chú Nguyễn Tài là tài sản quý của Đảng, mọi người phải bảo vệ chú ấy”.
“Đó là một người anh, người thầy, người thủ trưởng kính mến, người “anh hùng của những anh hùng” mà suốt đời chúng tôi noi gương”. Thiếu tướng Nguyễn Đức Minh, nguyên Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND, Bộ Công an |
Tại miền Nam, ông hoạt động dưới biệt danh Tư Trọng, trở thành ủy viên Ban An ninh của Trung ương cục miền Nam, trực tiếp làm Phó rồi Trưởng ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định (còn gọi là Ban An ninh T4, tiền thân của Công an Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Ông đã có công rất lớn trong việc xây dựng và phát triển Ban An ninh Sài Gòn - Gia Định thành một lực lượng vững mạnh. Trước thời gian ông bị bắt, Ban An ninh T4 đã lập được nhiều chiến công và ngay cả CIA tại Sài Gòn cũng không nắm được đầy đủ về người lãnh đạo T4. Đồng chí Nguyễn Trọng Xuất, nguyên là cán bộ Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Kỳ, người có nhiều thời gian hoạt động cùng đồng chí Nguyễn Tài kể rằng: “Năm 1965. Ban Tuyên huấn khu Sài Gòn - Gia Định bị thiệt hại khá nặng nề, một bộ phận lớn của lực lượng vũ trang tuyên truyền bị địch phát hiện và bị bắt gần hết. Tôi nhận được tin nhắn của một nòng cốt trong nội thành nói tôi nên vào đứng chân trong nội thành để nắm lại lực lượng vũ trang tuyên truyền và chỉ đạo anh em. Tôi được giới thiệu gặp trực tiếp anh Nguyễn Tài. Sau khi nghe tôi trình bày, anh Tài kết luận: “Đồng chí chưa nên vào nội thành theo đề nghị của cơ sở. Qua những chi tiết mà đồng chí cho tôi biết, tôi cảm giác thấy có hiện tượng nội gián trong lực lượng của cánh Vũ trang tuyên truyền của Tuyên huấn T4”. Quả nhiên, nhờ kinh nghiệm nhạy bén của anh Tư Trọng, chúng tôi tránh được cái bẫy do địch giăng ra. Việc củng cố cánh Vũ trang tuyên truyền của Tuyên huấn T4 được tiến hành quy củ. Đến năm 1968, chúng tôi đã thực hiện được nhiều công tác quan trọng…”.
Ngày 23/12/1970 trên đường đi dự một cuộc họp của Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Nguyễn Tài bị bắt trong địa phận tỉnh Bến Tre với thẻ căn cước mang tên Nguyễn Văn Lắm. Khi bị phát hiện dùng thẻ căn cước giả, đồng chí đã nhanh chóng bày ra “trò chơi nghiệp vụ” để gây rối quá trình điều tra, không làm ảnh hưởng tới tổ chức. Đồng chí khai mình là Đại úy Nguyễn Văn Hợp, sỹ quan tình báo hoạt động đơn tuyến, được cử vào miền Nam tạo vỏ bọc chờ ngày chiến tranh kết thúc thì sang Pháp hoạt động. Trong cuốn hồi ký của mình có tên Ngọn lửa, đồng chí Nguyễn Tài kể lại rằng, thời gian đầu còn giấu được tung tích, lừa địch bằng một bình phong giả tạo; nhưng sáu tháng sau do một sơ hở từ bên ngoài, rồi do một số người phản bội khai báo, nhận diện nên ông bị lộ tung tích. Kể từ đó, một cuộc đấu tranh trực diện gay go, quyết liệt đã diễn ra đối với ông trong hoàn cảnh bị biệt giam suốt 4 năm, 4 tháng, 10 ngày, khi thì với tình báo ngụy, khi thì với CIA Mỹ. Trong Hồi ký Ngọn lửa, ông tả lại nhiều đòn tra tấn dã man của địch mà chỉ mới nghe thôi tôi đã thấy ớn lạnh chạy dọc thân mình.
Tháng 11/1971, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định Trần Bạch Đằng viết thư nhân danh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam gửi phía Mỹ đặt vấn đề trao đổi đồng chí Nguyễn Tài với một tù binh Mỹ là Douglas Ramsey, nhân viên Bộ Ngoại giao Mỹ bị bắt từ năm 1966. Phía Mỹ từ chối vì cho rằng “Nguyễn Tài quá quan trọng để đáng đổi lấy Ramsey”. Đầu năm 1972, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ CIA giành lấy quyền thẩm vấn ông từ tay Trung tâm Thẩm vấn quốc gia. Lần lượt CIA cử hai chuyên viên thẩm vấn có trình độ cao là Peter Kapusta và Frank Snepp từ Mỹ sang để trực tiếp tiến hành việc hỏi cung. Sau này, ngày 27/4/2009, F.Snepp đăng bài “Bị quá khứ tra tấn” trên báo Los Angeles Times thuật lại thời gian thẩm vấn đồng chí Nguyễn Tài. F.Snepp thú nhận “vẫn còn bị ám ảnh bởi những gì tôi đã làm”. Năm 1977, Frank Snepp xuất bản cuốn Hồi ký Decent Interval, trong đó có một chương nhan đề In good faith (Nói thật tình) có đoạn: “Với sự giúp đỡ của Mỹ, người Nam Việt Nam đã lập cho y (Nguyễn Tài - Tg) một xà lim riêng và phòng hỏi cung (số 3 Bạch Đằng - Tg), cả hai đều quét màu trắng và hoàn toàn trống trải, trừ một chiếc bàn, một chiếc ghế, một lỗ để đi tiểu; và những máy thu của truyền hình, những micro bí mật để theo dõi mọi cử chỉ mọi lúc thức ngủ của y. Các nhân viên canh gác đã sớm phát hiện một chỗ rạn nứt về mặt tâm sinh lý trong người y. Giống như nhiều người Việt Nam, y cảm thấy các mạch máu bị co lại khi bị phơi ra lạnh. Vì thế chỗ ở của y và phòng hỏi cung được lắp máy điều hòa nhiệt độ có công suất cao và bị giữ lạnh hoàn toàn. Những người hỏi cung Nam Việt Nam đã phải làm việc 8 tháng, từ sau khi y bị bắt, hòng bắt y khai những bí mật. Nhưng họ đã thất bại. Y đã nói với một trong những người tra tấn y: “Tao sẽ bắn gục mày ngoài đường phố nếu tao thoát”... F.Snepp khẳng định rằng, các bức tường đều sơn trắng toát khiến tinh thần người tù luôn bị căng thẳng; trần gắn 5 ngọn đèn công suất lớn bật suốt 24/24 nhằm làm cho người tù mất khái niệm về thời gian. Xà lim kín mít, người tù không bao giờ thấy ánh sáng bình minh của ngày mới. Bị biệt giam ở đó trong thời gian dài, người tù bị một sức ép tâm lý mãnh liệt khiến nhận thức của họ bị rối loạn và có thể tiết lộ thông tin một cách vô ý thức
“Thẩm vấn Nguyễn Tài là thẩm vấn nhiều thách thức nhất của tôi. Cho đến ngày 30/4/1975, “Tài đã trải qua hơn bốn năm bị biệt giam trong xà lim nhưng ông chưa từng khai nhận một cách đầy đủ ông là ai”. Frank Snepp – Chuyên viên thẩm vấn CIA |
Giữ vững thế chủ động cả về thể chất lẫn tinh thần, đồng chí Nguyễn Tài đã tìm cách chống lại các thủ đoạn “làm mất phương hướng” của các thẩm vấn viên CIA. Trong hồi ký của mình đồng chí Nguyễn Tài kể, khi bắt đầu phát giác ra ông là Tư Trọng - Trưởng Ban An ninh T4 và là con trai của nhà văn Nguyễn Công Hoan, địch đã mang đến cho ông những cuốn tiểu thuyết và những cuốn sách có in ảnh cha ông, rồi mang cả tấm ảnh ông chụp với Bác Hồ trong chuyến đi thăm xứ Nam Dương. Sợ CIA sẽ tiêm các loại thuốc khiến mình mất kiểm soát, ông tập cho mình nói câu “quên”, “quên rồi” để đề phòng ngay cả lúc nửa tỉnh nửa mê vì những đòn tra tấn dã man ông vẫn có thể nói câu “quên rồi”.
F.Snepp viết trong Hồi ký Decent Interval: “...Y nhỏ người, nhưng thể lực vững, mỗi ngày tập thể dục hàng giờ trong xà lim 30 bộ vuông. Chỉ có trên nét mặt là thể hiện sự tàn phá của việc bị biệt giam lâu ngày - một khuôn mặt hốc hác xanh xao vì thiếu ánh sáng mặt trời, râu rậm hơn phần đông người Việt Nam vì mỗi tuần chỉ được phép nhổ râu hai lần. Tự mình có kỷ luật rất cao, Tài tự động thức dậy hàng ngày vào 6 giờ sáng, tập thể dục, đọc nửa tiếng đồng hồ sách Pháp hoặc tiếng Việt mà những người gác cung cấp cho y, rồi chờ ăn sáng. Sau đó y lại lặp lại nếp sống thường lệ suốt ngày cho đến khi đi ngủ, cũng tự động vào 10 giờ tối mà chưa hề bao giờ thấy mặt trời mọc và lặn”.
Cứ thế, đồng chí Nguyễn Tài đã đi qua những tháng ngày bị tra tấn bằng một tinh thần thép. Ông hát thầm Quốc ca khi thức dậy, tập các động tác thể dục đơn giản, sáng tác các bài thơ, bài hát trong đầu. Ông cũng vẽ một ngôi sao trên tường xà lim để ngôi sao ấy soi đường cho mình trong những tháng ngày khắc nghiệt. Frank Snepp được giao thẩm vấn 8 tù nhân tại Trung tâm thẩm vấn quốc gia, nhưng ông ta thú nhận: “thẩm vấn Nguyễn Tài là thẩm vấn nhiều thách thức nhất của tôi”. Snepp kết luận: Cho đến ngày 30/4/1975, “Tài đã trải qua hơn bốn năm bị biệt giam trong xà lim nhưng ông chưa từng khai nhận một cách đầy đủ ông là ai”. Trong cuộc đấu tranh bất khuất vì độc lập dân tộc, có rất rất nhiều những người con ưu tú bị địch bắt, tra tấn, tù đày, nhưng đồng chí Nguyễn Tài là người được các tác giả Mỹ đề cập nhiều nhất. Họ gọi ông là “Người trong xà lim trắng toát”, “một cán bộ Cộng sản tận tâm”, “một người từng trải, thông minh, được đào tạo tốt” hay “một người cứng cỏi không dễ gì làm suy yếu”.
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết. Theo Hiệp định Paris, hai bên trao trả tù binh cho nhau. Nhưng Việt Nam Cộng hòa vi phạm trắng trợn hiệp định, tiếp tục giam giữ nhiều người trong đó có đồng chí Nguyễn Tài, thậm chí ngày 26/4/1975, CIA còn ra lệnh thủ tiêu ông. Đồng chí Nguyễn Tài chỉ được bộ đội ta giải phóng khỏi nhà giam số 3 Bạch Đằng vào ngày chiến thắng 30/4/1975. Nghe tin ông còn sống, đích thân Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn đã vào đón ông về. Trong bài báo “Đại tá an ninh Nguyễn Tài và 2000 ngày đấu trí với CIA”, nhà báo Lan Hương có viết rằng, khi nghe tin con trai còn sống, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã đi từ căn nhà của mình sang căn nhà của cô con gái - nhà văn Lê Minh. Ông ôm lấy con gái và khóc mãi không thôi.
“Quá trình hoạt động cũng như quá trình đấu tranh kiên trung, mưu trí khi bị địch bắt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước của đồng chí Nguyễn Tài cho thấy, đồng chí xứng đáng là một anh hùng”. Thủ tướng Võ Văn Kiệt |
Sau khi trở về, đồng chí Nguyễn Tài trở thành Thứ trưởng Bộ Công an. Con người xuất sắc ấy từng có thời gian dài bị đình chỉ công tác để thẩm tra về thời gian ông bị địch bắt. Với ông, đó là thời gian vô cùng khủng khiếp. Nhưng với bản lĩnh kiên cường, tâm sáng, ông luôn tin tưởng vào sự công minh, bình tĩnh, kiên quyết đấu tranh có nguyên tắc trong nội bộ. Bà Lê Thị Xuân Uyên, Đội trưởng Đội Nữ điệp báo đầu tiên của Công an Hà Nội từng nhận xét: “Ông Nguyễn Tài là một nhân vật lịch sử, trải qua tất cả những hạnh phúc và đau đớn của nghề, và từ cả hai phía. Chính lòng tin vào lý tưởng cách mạng đã giúp ông vượt qua những khoảnh khắc hiểm nghèo nhất. Ông là người quy tụ các phẩm chất trí tuệ, quả cảm, trung thành, tài hoa, một trong những cá nhân xuất sắc của lực lượng Công an”. Chính Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định là người đã viết thư đề nghị Nhà nước phong tặng phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho ông: “Quá trình hoạt động cũng như quá trình đấu tranh kiên trung, mưu trí khi bị địch bắt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước của đồng chí Nguyễn Tài cho thấy, đồng chí xứng đáng là một anh hùng. Sau giải phóng, đồng chí Nguyễn Tài đã kiên trì thẳng thắn đấu tranh có nguyên tắc để bảo vệ mình trước những nghi vấn về thời gian bị địch bắt giam cầm và đã được các cơ quan chức năng của Đảng kết luận. Việc đó càng làm sáng tỏ hơn phẩm chất anh hùng của đồng chí”. Tập thể Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhận xét rất tốt đẹp về ông tại Công văn số 33, ngày 8/4/1978: “Trong suốt thời gian công tác ở thành phố cho đến lúc bị địch bắt, đồng chí Tư Trọng là một cán bộ cốt cán tích cực, xông xáo không sợ hiểm nguy, không chùn bước trước khó khăn, lăn vào chiến trường và đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự lãnh đạo của thành ủy và xây dựng Ban An ninh thành phố”. Ngày 23/12/1988, tại Văn bản số 570, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã khẳng định: “Đồng chí Nguyễn Tài đã có tinh thần chịu đựng sự tra tấn dã man của địch, khôn khéo đối phó với địch, bảo vệ cơ sở và những bí mật của Đảng mà mình biết”. Ghi nhận những cống hiến của đồng chí Nguyễn Tài, năm 2002, Đảng và Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho ông. Có thể nói, để có được danh hiệu cao quý đó, người cán bộ an ninh xuất sắc ấy đã phải hy sinh xương máu, trung kiên bảo vệ cách mạng trong nhà tù Mỹ, ngụy và dũng cảm đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ nhân cách trong sáng của mình - một đảng viên trước nhân dân như Thiếu tướng Nguyễn Đức Minh, nguyên Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND, Bộ Công an đã nói về người thủ trưởng cũ của mình: “Đó là một người anh, người thầy, người thủ trưởng kính mến, người “anh hùng của những anh hùng” mà suốt đời chúng tôi noi gương”.
LÊ ANH TUẤN
Nguyên Phó Cục trưởng A74, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Nhân quyền
[1] Đồng chí Lê Giản rất nổi tiếng với việc chỉ đạo phá vụ án Ôn Như Hầu đập tan âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân do Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành năm 1946, ông là Giám đốc Nha Công an Trung ương từ tháng 6/1946 đến tháng 9/1952.
[2] 5 đại biểu đó là các đảng viên: Tô Duy, Lê Giản (Tô Gĩ), Lê Văn Lương, Trần Bình, Tô Quang Đẩu.