Vụ tranh chấp ở Xã Phúc Khánh, Hưng Hà, Thái Bình: Cần thượng tôn Pháp luật
Dòng họ Phạm Huy ở thôn Hương Xá, xã Phúc Khánh, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là một trong những dòng họ lớn. Cụ Thủy tổ họ Phạm là người đầu tiên khai hoang, lập ấp, lập nên làng Hương Xá. Dòng họ đã định ở đây từ thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Đông Hán cách đây hơn 2000 năm Trải qua nhiều thế kỷ, con cháu của dòng họ đã có nhiều người học hành thành đạt: Đỗ Tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân. Nhiều con em của dòng họ là liệt sĩ, sĩ quan trong quân đội.
Dòng họ Phạm Huy và nguồn gốc đất
Nhớ đến công đức nuôi dạy của tổ tiên, của ông cha, hàng năm con cháu trong Chi 6 của dòng họ ở khắp mọi miền đều về tổ chức cúng giỗ cụ Tổ Phạm Huy Đoan vào ngày 18 tháng 8 âm lịch và cụ bà Nguyễn Thị Định vào ngày mồng 1 tháng 10 âm lịch.
Theo ông Phạm Ngọc Đại, 84 tuổi, Trưởng chi 6 của dòng họ hiện thường trú tại Phòng 204, nhà C10, khu Nam Thành công cho biết: Di sản tổ tiên để lại gồm: một mảnh đất thổ cư (thửa 253) diện tích 1,5 sào trên đó có 3 gian nhà thờ, 3 gian nhà ở cùng công trình phụ. Thửa đất thổ canh 1,8 sào là hương hỏa các đời xưa để lại.
Sau khi cụ Phạm Huy Đoan qua đời, quyền quản lý số tài sản trên được trao lại cho con trai trưởng là Phạm Huy Phú. Ngôi nhà thờ đã được tôn cao nền, sửa chữa lại lần đầu vào năm 1942. Năm 1947, nhà thờ bị giặc Pháp đốt, nhưng tường cũ vẫn còn và được tôn tạo lại bằng nhà gỗ, lợp mái ngói. Năm 1998, do bị mối mọt hư hỏng nên con cháu đã đóng góp tiền tôn tạo lại lần thứ ba.
Cụ Phạm Huy Phú mất, toàn bộ di sản này được được giao lại cho cụ Phạm Huy Phan quản lý. Theo truyền thống thừa kế nhiều đời nay của dòng họ, khi cụ Phạm Huy Phan qua đời, di sản này được giao lại cho ông Phạm Ngọc Đại, là chi trưởng Chi 6 đời thứ tư của dòng họ Phạm Huy quản lý, mà không cần di chúc cộng đồng của Chi 6.
Nhà thờ họ Phạm Huy |
Có hay không trông coi nhà rồi chiếm luôn nhà và đất?
Sinh trưởng trong một gia đình có nhiều anh em, nhưng từ nhỏ (năm 1954) ông Phạm Ngọc Đại đã phải vào học phổ thông ở Liên khu Ba, Thanh Hóa. Năm 1957 tốt nghiệp Cao đẳng giao thông công chính ở Hà Nội. Năm 1964, tốt nghiệp Đại học giao thông. Năm 1971, ông dược Ban tổ chức Trung ương điều động vào Nam công tác. Do đặc thù công việc, nên hầu như ông phải xa nhà thường xuyên.
Năm 1964, bố ông là cụ Phạm Huy Phan mất. Ngày đó, ông Đại nghe lời của vợ chồng chị gái là ông Lê Văn Hữu và bà Phạm Thị Phơ xin về ở nhờ trên đất và nhà cụ Phan để lại để trông coi Nhà thờ. Năm 1965, vợ chồng ông Hữu bà Phơ chính thức đến ở (thời gian này, mẹ ông là cụ Bùi Thị Vẹt vẫn còn sống, chị gái thứ 5 là Phạm Thị Hồi vẫn chưa đi lấy chồng).
Năm 1996, vì có nhu cầu tôn tạo lại nhà thờ và theo nguyện vọng của con cháu trong Chi 6 của dòng họ là muốn xây một ngôi nhà để khi về Tết, hoặc cúng giỗ tổ tiên thì có chỗ để mọi người ngồi trò chuyện và đặt mâm lễ, mâm cơm. Vì thế, một số anh em, con cháu đã cho vợ chồng ông Hữu, bà Phơ vay tiền, thóc gạo, vật tư để mua đất làm nhà chuyển sang chỗ ở khác.
Nhưng sau khi cất xong nhà mới, chỉ có con trai là ông Lê Thanh Nghị chuyển đến ở, còn vợ chồng ông Hữu vẫn ở lại với lý do là “không ở chung được với con dâu”. Không những thế, ngay sau đó, vợ chồng ông Hữu còn ngang nhiên xây tường ngăn lối từ nhà thờ ra cổng và xây thêm bể nước kiên cố. Thậm chí còn chiếm luôn mảnh đất thổ canh 252m2 để làm nhà cho con trai thứ 2 là Lê Thanh Tùng ở. Đồng thời, ép ông Phạm Ngọc Đại bán lại phần đất vợ chồng ông đang sử dụng.
Không đồng tình với cách hành xử của vợ chồng ông Hữu, ông Đại kiên quyết không bán đất thừa kế của tổ tiên cho ai cả. Được sự nhất trí của hầu hết con cháu trong Chi 6 dòng họ Phan Huy, ông Phạm Ngọc Đại đã làm Đơn khởi kiện ông Lê Văn Hữu về hành vi chiếm đoạt tài sản của tổ tiên (tài sản công) thành tài sản riêng.
Bức tường mới xây và cuộc tranh chấp kéo dài |
Các cấp Tòa có dấu hiệu vi phạm quá trình tố tụng
Vụ khiếu nại tranh chấp đất của Chi 6 dòng họ Phạm Huy ở xã Phúc Khánh đã trải qua 3 cấp Tòa xét xử. Đó là phiên tòa sơ thẩm số 1/2006/DTST của TAND huyện Hưng Hà xử ngày 24/02/2006. Phiên Tòa phúc thẩm số 25/2006/DSPT của TAND tỉnh Thái Bình ngày 01/6/2006 và Bản án Giám đốc thẩm của TANDTC số 1/340/DSGĐT (nhận qua đường Bưu điện) với lời lẽ cực kỳ ngắn gọn “Y án Bản án phúc thẩm số 25/2006/DSPT ngày 1/6/2006 của TAND tỉnh Thái Bình”
Cả 3 cấp Tòa đều phán quyết: Bác yêu cầu của Chi 6, ngành 2, họ Phạm Huy về việc đòi lại tài sản và diện tích đất còn lại mà hiện nay ông Lê Văn Hữu, bà Phạm Thị Phơ và gia đình anh Lê Thanh Tùng đang sử dụng.
Quá thất vọng với những phán xét sai trái của tòa, ông Phạm Ngọc Đại và con cháu của Chi 6, dòng họ Phạm Huy tiếp tục có Đơn kiến nghị TANDTC tiến hành xét xử tái thẩm vụ án này. Lý do cả 3 cấp tòa đều có dấu hiệu vi phạm quá trình tố tụng, điều tra, xác minh chứng cứ thiếu công bằng, khách quan; thậm chí có nhiều tình tiết bịa đặt, giả mạo đã được các Luật sư và con cháu Chi 6, dòng họ Phạm Huy chỉ ra:
Một là, ông Ngô Thanh Mai, Chủ tọa phiên tòa phúc thẩm của TAND tỉnh Thái Bình thừa nhận trong tờ Bản đồ số 1 của thôn Khánh Mỹ, Tổng Tống Xuyên, huyện Hưng Hà thời Pháp thuộc có tên 2 thửa đất số 253 và 281 nhưng không có người sử dụng. Đây chính là 2 thửa đất có từ xa xưa của tổ tiên, ông bà ông Phạm Ngọc Đại. Tuy nhiên một phần do chiến tranh, một phần do người quản lý địa chính đã làm tắc trách, sai lạc hồ sơ. Điều đáng nói là, biết vậy nhưng Tòa đã không truy căn nguyên chủ cũ của 2 thửa đất này là ai? Mà chỉ căn cứ vào tờ bản đồ số 04, tài liệu 299/TTG mới đo vẽ năm 1984, 1985.
Thời đó, theo ông Đại cho biết, cán bộ địa chính xã là ông Nguyễn Văn Thọ đã cố ý đưa tên ông Lê Văn Hữu vào đứng tên sử dụng 2 mảnh đất này. Vợ chồng ông Hữu là người được bố mẹ và ông Đại cho ở nhờ để trông coi nhà thờ, chứ hoàn toàn không có Di chúc hoặc bất cứ loại giấy tờ gì chứng minh: ông Hữu được bố mẹ vợ cho đất, bán đất để làm nhà ở. Đây là bằng chứng, là tình tiết quan trọng nhất, mẫu chốt nhất của vụ án mà Tòa phúc thảm tỉnh Thái Bình đã cố tình bỏ qua!.
Hai là, trước khi diễn ra phiên tòa phúc thẩm xử ngày 1 tháng 6 năm 2006, không hề có “cuộc hòa giải” nào giữa nguyên đơn và bị đơn. Không có cái gọi là “đã thỏa thuận” giữa ông Phạm Ngọc Đại và ông Lê Văn Hữu rằng: “để lại 147m2 để làm nhà thờ, phần còn lại để cho vợ chồng ông Lê Văn Hữu, bà Phạm Thị Phơ sử dụng”. Đây là sự bịa đặt trắng trợn của Chủ tọa phiên tòa. Cần nhấn mạnh: Điều 670 Bộ Luật dân sự đã quy định: Không cho con cháu của dòng họ mang Di sản thờ cúng để tặng hay cho bất kỳ ai sử dụng!.
Ba là, nhân chứng của vụ án, đại diện nguyên đơn là ông Phạm Ngọc Đại - người được Chủ tịch UBND xã xác nhận, ký tên, đóng dấu thì Tòa bỏ qua, không giới thiệu. Ngược lại, Tòa giới thiệu một số nhân chứng vu vơ, gọi là đại diện cho một số đoàn thể để nói bừa rằng: Nhà thờ của chi 6, dòng họ Phạm Huy chỉ mới được xây dựng năm 1998?
Bốn là, cả 3 phiên tòa đều không mời đại diện Viện kiểm sát cùng cấp tham dự! không công khai các giấy tờ, chứng từ thu thập được, không tổ chức đối chất, tranh luận giữa nguyên đơn và bị đơn.
Thay cho lời kết
Vụ tranh chấp, kiện tụng về đất đai xảy ra trong nội bộ gia đình của Chi 6, dòng họ Phạm Huy ở Hưng Xá, xã Phúc Khánh, huyện Hưng Hà đã nhiều năm. Nguyện vọng vô cùng chính đáng của con cháu chi 6, dòng họ Phạm đề đạt nhiều năm nay mọi người đều đã rõ.
Đặc biệt, những sai phạm trong quá trình xét xử của Tòa án các cấp đều đã được các luật sư và con cháu trong dòng họ chỉ ra và đã gửi kháng nghị, kiến nghị đến nhiều cơ quan bảo vệ pháp luật xem xét lại. Mọi phán quyết cuối cùng vẫn đang chờ Tòa án nhân dân tối cao xét xử phiên tái thẩm.
Hy vọng với tinh thần thượng tôn pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao sẽ cho điều tra, xem xét lại tất cả hồ sơ, chứng từ và những khuất tất trong quá trình tố tụng của các bản án trước, để có phán quyết công minh, khách quan nhằm trả lại sự công bằng và đòi hỏi chính đáng của con cháu Chi 6, dòng họ Phạm ở thôn Hưng Xá, xã Phúc Khánh, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Lê Hữu – Đỗ Quý Thích