Em “sống trung thành, chết thủy chung”
Đầu năm 2002, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn (TP Hà Nội) tổ chức lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân thời kỳ chống Pháp. Có hai nhân vật xuất hiện trong ngày lễ đã gây sự chú ý đối với mọi người: Nhà thơ Vũ Cao, tác giả bài thơ “Núi Đôi” nổi tiếng và CCB Trịnh Khanh, nhân vật “Anh đi bộ đội sao trên mũ” trong bài thơ “Núi Đôi”.
|
Song, điều khiến mọi người hết sức ngạc nhiên và bất ngờ là người nữ Anh hùng Liệt sỹ Trần Thị Bắc, nguyên mẫu trong bài thơ “Núi Đôi” của Vũ Cao thực chất đã có chồng và chồng cô chính là CCB Trịnh Khanh. Sự thật đó còn đẹp hơn huyền thoại…
Sau ngày đó, tôi tìm đến nhà ông Trịnh Khanh, trú tại Đội 8, xóm Đông, thôn Hậu Dưỡng, xã Kim Chung, huyện Đông Anh (TP Hà Nội). Trong căn nhà cấp bốn khiêm nhường, ông Khanh mặc dù cởi mở nhưng lại rất ít nói về mình. Dường như những kỷ niệm của một thời trai trẻ, ông chỉ muốn để cho riêng mình và người đã khuất.
Sinh năm 1930 trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Vệ Linh, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội, Trịnh Khanh luôn tự hào về quê hương mình có ngọn núi Sóc, nơi Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời. Năm 1947, mới 17 tuổi, Trịnh Khanh xung phong đầu quân vào Đại đội Trần Quốc Tuấn (Trung đoàn 121), đơn vị chủ lực chuyên làm nhiệm vụ chiến đấu ở vùng Đồng bằng Trung du Bắc Bộ. Mặc dù nay đây mai đó, sống chết luôn cận kề nhưng đời lính lúc nào cũng hồn nhiên, vô tư.
Năm 1950, đơn vị ông đóng quân ở gần khu sơ tán của Trường Y tế tỉnh Vĩnh Phúc thuộc xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn. Một hôm, Trần Nhu, quê ở Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), nét mặt hớn hở đến gặp Trịnh Khanh và bảo:
- Cậu có một cô gái đồng hương rất xinh, hiện đang theo học lớp y tá gần đây. Nếu muốn “cưa” thì bọn mình sẽ giúp.
Không ngờ câu nói vui đó lại trở thành sự thật. Mối tình giữa anh bộ đội Trịnh Khanh (thôn Vệ Linh) với cô nữ du kích Trần Thị Bắc, người cùng xã (ở thôn Xuân Đoài) đã trở thành biểu tượng cao đẹp về tình yêu quê hương, đất nước của lớp trẻ trong những năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta.
Ông Khanh bồi hồi xúc động nhớ lại: “Từ lúc quen biết cho đến gần hai năm sau (1952), tôi mới gặp lại Bắc khi cô ấy tiếp tục theo học lớp y tá của tỉnh Vĩnh Phúc. Chúng tôi đã ngỏ lời hẹn ước với nhau khi nào thắng trận ở Bắc Hồng (Đông Anh, Hà Nội) sẽ về tổ chức đám cưới. Thời gian đó, Bắc thường sang chơi, nấu cơm cho cả mấy anh em trong đơn vị và được mọi người quý mến gọi là “nàng dâu” của tiểu đội. Nhất là Chính trị viên đại đội Nguyễn Viết Bát luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện để chúng tôi thường xuyên được gặp nhau. Đó là những khoảnh khắc tuy ngắn ngủi nhưng mang đầy ý nghĩa đối với cả tôi và Bắc, vì đã hiểu được thế nào là niềm hạnh phúc của những người yêu nhau.
Rồi Trần Thị Bắc quay về Phù Linh để tiếp tục hoạt động du kích trong vùng địch hậu, còn tôi thì lao vào những trận đánh mới. Cuối năm 1953, trước lúc bước vào trận đánh tiêu diệt quân địch ở xã Bắc Hồng, Chính trị viên Nguyễn Viết Bát ghé sát tai tôi nói: “Đánh xong trận này, tớ sẽ giải quyết cho cậu ba ngày ra vùng tự do để cưới vợ”.
Vốn đã từng làm công tác văn phòng ở đại đội chuyên “nói có sách, mách có chứng”, tôi liền rút giấy bút ở trong túi ra và tự tay thảo vội bức “công văn” ngắn gọn: “... Đại đội Trần Quốc Tuấn đồng ý giải quyết cho đồng chí Trịnh Khanh về quê tổ chức lễ cưới với cô Trần Thị Bắc, đề nghị gia đình và chính quyền địa phương tạo điều kiện giúp đỡ để đồng chí Khanh hoàn thành nhiệm vụ. Ký tên...”. Thảo xong bức thư, tôi đưa ngay cho chính trị viên duyệt và anh Bát cầm bút ký liền.
|
Không ngờ, sau trận đánh ấy, anh Bát đã vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại. Phần vì tiếc thương người chính trị viên đại đội và cũng là để thực hiện ý nguyện của anh mong muốn cho tôi và Bắc sớm được nên vợ, nên chồng, tôi quyết định xin phép đơn vị ba ngày về thăm gia đình. Khi đưa cho Bắc xem lá thư có chữ ký của Chính trị viên Nguyễn Viết Bát, em im lặng không nói gì, hai hàng nước mắt cứ trào ra... Tôi hiểu tâm trạng của Bắc lúc đó vừa thương xót anh Bát, vừa kính phục tấm lòng đức độ của người chỉ huy luôn quan tâm vun đắp hạnh phúc cho mọi người.
Tôi và Bắc đã quyết định xin phép gia đình hai bên để tổ chức đám cưới. Bắc trở lại vùng địch hậu gặp mẹ và thật bất ngờ, ngay hôm sau, mẹ Bắc đã quẩy đôi quang gánh nặng, một bên là cậu em út Trần Văn Nhuận, một bên là bánh kẹo lên vùng tự do Hồng Kỳ để làm lễ cưới. Đêm tân hôn hôm đó, vợ chồng tôi được mọi người quan tâm chuẩn bị cho một ổ rơm lót đệm lá chuối khô trong một túp lều nhỏ trên sườn đồi. Hai ngày sau, chúng tôi lại phải chia tay nhau. Ngờ đâu, đó là cuộc chia ly vĩnh viễn...”.
Ba tháng sau ngày cưới, cùng một lúc ông Khanh nhận được ba lá thư, một của đồng đội, một của vợ nhắn là đã gửi cho ông chiếc đồng hồ và chiếc áo len, lá còn lại là của gia đình báo tin Trần Thị Bắc đã anh dũng hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ. Ông Khanh lặng người đau đớn, hai dòng lệ cứ tuôn trào, rơi xuống những dòng chữ trong bức thư. Thế rồi cũng đến ngày hòa bình lập lại, ông mới có dịp trở về làng tìm mộ vợ.
Một chiều đông năm 1955, dân làng thấy một anh bộ đội thơ thẩn bên gò cầu Cồn. Người em họ của liệt sĩ Trần Thị Bắc nhận ra anh rể của mình đã òa lên khóc: “Chị Bắc nát ngực, máu đọng khô, nhiều viên đạn còn nằm trong đó”. Mặc dù chưa gặp và cũng chưa được chứng kiến tình yêu đôi lứa của anh Bộ đội Cụ Hồ năm nào với liệt nữ Núi Đôi, nhưng nhà thơ Vũ Cao đã cảm nhận được những thổn thức từ trái tim của người chiến sĩ lúc ấy: Mới đến đầu ao tin sét đánh/ Giặc giết em rồi dưới gốc thông/ Giữa đêm bộ đội vây Đồn Thứa/ Em sống trung thành, chết thủy chung.
Sự đau buồn dần dần rồi cũng nguôi ngoai. Cuối năm 1957, ba người mẹ: Mẹ đẻ của nữ liệt sĩ Trần Thị Bắc cùng mẹ đẻ và mẹ nuôi của Trịnh Khanh đã thân chinh đến thôn Hậu Dưỡng, xã Kim Chung (Đông Anh) để hỏi vợ cho ông. Bà Phan Thị Khuyến, vợ ông bây giờ, là người hiểu lẽ đời, sống có tình có nghĩa... Hằng năm, cứ đến ngày giỗ, Tết, bà Khuyến lại cùng các con về quê Núi Đôi để thắp hương tổ tiên, gặp gỡ họ hàng, người thân của người đã khuất.
Tình yêu cao đẹp của nữ liệt sĩ Núi Đôi và niềm hạnh phúc của gia đình luôn là động lực giúp Trịnh Khanh vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. 19 năm tham gia quân đội với quân hàm thượng úy, sau đó ông chuyển ngành, làm Phó ban Lịch sử Đảng tỉnh Vĩnh Phúc cho đến khi nghỉ hưu.
Ông Trịnh Khanh đã qua đời. Bài viết này như một nén tâm nhang cầu chúc ông an nghỉ ngàn thu với người vợ Anh hùng Liệt sỹ Trần Thị Bắc - người con gái Núi Đôi (Phù Linh, Sóc Sơn) đã đi vào huyền thoại. Từ những nguyên mẫu giữa đời, nhà thơ Vũ Cao đã chắt từ trái tim mình ra những câu thơ giản dị làm rung động tâm hồn bao thế hệ người Việt Nam.
Ngô Văn Học