Chuyện tình người lính qua bài thơ "Tình em"
Vào năm 1962, báo Sức trẻ, sau đó là báo Văn nghệ đăng một bài thơ từ miền Nam gửi ra. Đó là bài Tình em của Hồ Ngọc Sơn. Ngay lập tức, bài thơ được nhạc sĩ quân đội Huy Du phổ nhạc, được liên tục phát đi trên sóng phát thanh Đài TNVN
Cùng với Bài ca hy vọng của nhạc sĩ Văn Ký (1958), hai ca khúc này đã thắp lên niềm tin mãnh liệt ở tình yêu, ở tương lai Bắc – Nam thống nhất trong những ngày hai miền bị chia cắt, Mỹ ngụy đàn áp dã man những người kháng chiến và những gia đình có người thân tập kết ra miền Bắc. Nguyên văn bài thơ đăng báo như sau:
Hồ Ngọc Sơn
TÌNH EM
Gửi H…
Khi chiếc lá xa cành
Lá không còn màu xanh
Mà sao em xa anh
Đời vẫn xanh rời rợi?
-Có gì đâu em ơi
Tình yêu là sự sống!
Nên nắng hửng trong lòng
Mạch đời căng máu nóng.
Anh đi xa bao núi
Tình em như khe suối
Lưu luyến và nhớ thương
Chảy theo anh khắp rừng
Anh đi xa càng xa…
Tình em như cỏ hoa
Âu yếm và thiết tha
Theo anh dài nương rẫy
Anh đi xa, xa mãi…
Đường giải phóng gian nan
Tình em là buồm căng
Qua bão bùng sóng lộng
Tình em là lửa hồng
Rực cháy giữa đêm đông
Mặt trời lên đỏ mọng
Như môi em tươi hồng
Vì sao khuya đỉnh núi
Là mắt em xa xôi
Làm cánh gió em ơi!
Làm cánh chim em ơi!
Chắp cánh ta yêu nhau
Trọn đường đời chiến đấu.
Anh đi biệt tháng ngày
Tình em như sông dài…
Tác giả của bài thơ là một Anh Bộ đội Cụ Hồ. Hồ Ngọc Sơn là tên thật. Ông sinh năm 1932 tại thị xã Quảng Ngãi, đi bộ đội và tập kết ra Bắc năm 1954. Năm 1961, ông trở về chiến đấu trên chiến trường Khu V và Tây Nguyên. Năm 1967, ông là phóng viên báo Quân Giải phóng Miền Trung Trung Bộ. Sau năm 1975, ông là Trưởng Phòng Tuyên huấn Quân khu V kiêm Tổng Biên tập báo Quân khu V. Ông về hưu tại Hà Nội với quân hàm Đại tá, chức vụ Trưởng phòng Báo chí – Thông tấn thuộc Cục Tư tưởng - Văn hóa, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam.
Sau khi về hưu, ông thường đến chơi với tôi ở báo Nhân Dân, 71 Hàng Trống. Ông cao lớn nhưng hiền như con gái. Ông có gương mặt đẹp, khi nói miệng luôn cười. Cùng là người làm thơ, làm báo, tuy tôi nhỏ hơn ông 13 tuổi nhưng vẫn được ông trân trọng, nhờ việc gì cũng rất nhiệt tình, hẹn việc gì không bao giờ sai. Tôi kể cho ông nghe cảm xúc của mình khi lần đầu tiên đọc bài thơ này và kỷ niệm được một cô gái sinh viên chép tặng tiễn tôi ngày ra trận. Tự coi bài thơ (cùng với bản nhạc của Huy Du) là một phần gia tài tinh thần của mình, tôi mạnh dạn nhờ ông kể lại hoàn cảnh ra đời và những kỷ niệm gắn bó với bài thơ. Năm 2003, ông cẩn thận viết tay 6 trang A4 gửi cho tôi cùng nhiều tài liệu liên quan…
Hồ Ngọc Sơn viết:
“Một buổi chiều bình thường, yên ả như mọi ngày, bỗng tôi được bí mật gọi riêng lên gặp cấp trên và được giao nhiệm vụ bí mật trở về Nam chiến đấu.
Trước khi lên đường, tổ chức đã bí mật sắp xếp chu đáo cho chúng tôi được gặp nhau 5 hôm. Đến lúc này thì không thể giấu vợ tôi được nữa. Vợ tôi đã đoán biết chắc chắn tôi sắp sửa về Nam… Sau ba năm yêu nhau rồi cưới nhau, chúng tôi luôn mang lại cho nhau tiếng cười và niềm vui. Lần đầu tiên vợ tôi khóc. Tôi vội quay mặt và bước nhanh để giấu đi đôi mắt tôi cũng đang rưng rưng”…
Như vậy là, hai người chỉ thực sự sống đời sống vợ chồng chỉ 10 ngày rồi bước vào cuộc chia ly không biết bao giờ có thể gặp lại. Hồ Ngọc Sơn viết về những ngày đầu về Nam:
“Sau gần 70 ngày đêm hành quân trên những lối mòn bí mật khai phá, vượt qua không biết bao nhiêu thượng nguồn sông suối và đỉnh núi cao Trường Sơn, đơn vị tôi được lệnh dừng chân đóng quân ở một vùng núi phía tây tỉnh Quảng Ngãi, thuộc đất Kon Tum. Chúng tôi bước vào cuộc sống mới giữa đại ngàn hoang sơ, thâm u, xa vắng bóng người, đương đầu với những gian khổ thiếu thốn ngoài sức tưởng tượng, lắm lúc tưởng chừng không vượt qua nổi. không thể nào quên những bữa cơm “ gạo đắng” trong những ngày đầu đến chiến trường. Đó là những hạt gạo nuôi dưỡng “Cách mạng” được đồng bào cất giấu trong những kho ở rừng không biết từ năm nào, đã mục nát. Lĩnh một cân gạo đem về cho vào nước vo chỉ còn lại chừng vài lạng chắc hạt. Gạo nấu lên không thành cơm mà thành một loại bánh nháo sền sệt như bánh đúc, ăn đắng không tài nào nuốt nổi. Ghê sợ nhất là lạt muối. Đói cơm, lạt muối, thèm cơm, thèm muối, thèm khát rau xanh liên miên và sốt rét cũng hành hạ liên miên.
Thế nhưng, gian khổ , thiếu thốn ghê gớm nhất, vò xé nhất lại là về tình cảm. Sống heo hút cách biệt dân, cấp trên ở xa. Không có đài, báo chí để biết tin tức. Không có người thân để tâm sự. Đầu óc luôn ám ảnh bởi câu hỏi lớn: Cuộc chiến đấu này lâu dài đến bao giờ? Có thể nói, thử thách chiến trường lớn nhất lúc này không phải là đạn bom ác liệt mà là cuộc đấu tranh quyết liệt để giữ vững cho được lòng tin, tin chính mình, tin người yêu, tin vào ngày mai thắng lợi. Lòng tin là sức mạnh. Mất lòng tin là mất tất cả”!
“Mất lòng tin là mất tất cả”! Điều ấy không chỉ đúng ở chiến trường mà còn đúng cả với hậu phương miền Bắc. Không những thế, lúc ấy cả thế giới cũng nhìn về Việt Nam với câu hỏi lớn: Việt Nam có dám đánh Mỹ không? Có thắng nổi Mỹ không?
Ông Sơn kể tiếp:
“Vào mùa hè năm 1962, một hôm cùng đơn vị đi gùi đạn trên đường giao liên để chuẩn bị cho một trận đánh lớn, tôi tình cờ gặp một đồng chí thương binh quê ở Quảng Bình đang được chuyển về hậu phương. Sau khi trò chuyện, tôi bóc mảnh giấy trên hòm đạn viết nguệch ngoạc mấy dòng gửi vợ: “Anh vẫn mạnh khỏe. Nhớ em lắm. Địa chỉ của anh… Sẽ có thư dài sau. Nhớ em lắm. Hôn em rất nhiều”!
Thú thật vì nhớ vợ quá nên viết liều, chứ không hy vọng thư đến tay người nhận. Vậy mà anh thương binh Quảng Bình chưa từng quen biết nhưng vô cùng tốt bụng và đáng quý ấy, đã lần theo địa chỉ tìm về Nhà máy đường Sông Lam Nghệ An rồi ra Trương Bổ túc Công-Nông trung ương ở Hà Nội chuyển thư tận tay vợ tôi. Nhận ra chữ viết của tôi, vợ tôi sững sờ rồi khóc òa lên, quá xúc động và hạnh phúc!
Ba tháng sau, một ngày đầu mùa thu năm 1962, đơn vị tôi được lệnh chuyển từ Kon Tum vào Gia Lai. Không hiểu do sốt ruột hay linh tính, tôi tạt ngang vào trạm giao liên. Tôi bàng hoàng lặng người đi, mừng run lên khi nhìn thấy thư vợ tôi gửi vào.
Trong thư, vợ tôi tâm sự rằng giá mà sớm có với nhau đứa con, giữ lại một di sản quý báu nhất của tình yêu, một kỷ niệm thiêng liêng suốt cả đời người, thì dù tôi có xa cách bao lâu, ở phương trời nào vợ tôi cũng đành lòng.
Đoạn cuối của bức thư ấy, giống như mọi bức thư thời chiến khác, là động viên nhau hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ, lời hứa chung thủy đợi chờ, một tình cảm thắm thiết, mong chóng đến ngày thắng lợi để được chung sống bên nhau.
Những lời lẽ trong bức thư gợi nhớ xiết bao tình cảm nồng nàn, mới mẻ của vợ chồng mới cưới. Rừng le Tây Nguyên xạc xào trút lá bay vàng trên vai áo dọc đường hành quân. Đêm đó, trên chiếc võng, dưới trăng rừng, người sĩ quan trẻ không thể nào ngủ được. Nhớ vợ, thầm nhắc tên vợ càng khắc sâu nỗi bồn chồn, da diết trong lòng. Anh nghĩ về Tổ quốc, về Tình yêu; về sống – chết; vinh quang và hạnh phúc; chiến tranh và mất mát… Chiến tranh bao giờ cũng là thử thách nghiệt ngã nhất của mỗi dân tộc, của mối số phận con người, nhất là đối với người lính. Nó cũng là thước đo chuẩn xác nhất về tình yêu đối với Tổ quốc, thước đo của lòng chung thủy và tình yêu lứa đôi, thước đo của những phẩm giá con người. Mỗi người phải tự trả lời cho mình những câu hỏi căn bản nhất. Nó phải rạch ròi, không cho người ta được chần chừ, do dự, không có chỗ cho người đứng giữa hoặc lẩn trốn. Câu trả lời mà Hồ Ngọc Sơn tìm được trong những ngày tháng ấy là: Tình yêu lứa đôi chỉ có thể trở nên cao đẹp khi con người biết yêu nhau và cùng phục vụ cho một lý tưởng chung cao đẹp: lý tưởng cách mạng! Không có con đường nào khác là phải chịu hy sinh, nén mọi thương đau, lạc quan đi tới, để giành lại sự sống cho quê hương, đất nước. Ông cảm thấy một tình yêu thủy chung son sắt sẽ là nguồn sức mạnh kỳ diệu giúp người lính băng qua cái chết đi về sự sống. Lần đầu tiên, ông cảm nhận sâu sắc lòng chung thủy chờ chồng của người phụ nữ trong chiến tranh thật sự vĩ đại, cao quý. Hình ảnh những lá vàng rơi trên đường hành quân buổi chiều cứ bay miên man trong ý nghĩ. Những vần thơ đầu tiên được hình thành. Mờ sáng hôm sau, ông ghi vào nhật ký:
TÌNH EM
Gửi H.
Khi chiếc lá xa cành
Lá không còn màu xanh
Mà sao em xa anh
Đời vẫn xanh rời rợi
Có gì đâu em ơi
TÌNH YÊU LÀ SỰ SỐNG!
Câu cuối được viết hoa, tô đậm. Đó là suy nghĩ của ông, sự khẳng định về ý nghĩa tình yêu mà trong một ngày được đốt cháy bởi tình cảm vợ chồng giữa chiến trường, ông đã tìm ra được câu trả lời cho mình. Gia Lai ngày ấy tươi đẹp và giàu chất thơ. Đồi núi thoai thoải, thoáng đạt. Đường hành quân thường băng qua rất nhiều con suối nở vàng hoa dại, cảm giác suối cứ theo chân mình. Nương rẫy cũng theo mình giống như tình yêu của đất nước, của người thân không dứt. Trang nhật ký của ông lại có thêm những câu Anh đi xa bao núi/ Tình em như khe suối/ Lưu luyến và nhớ thương/ Chảy theo anh khắp rừng/ Anh đi xa càng xa/ Tình em như cỏ hoa/ Âu yếm và thiết tha/ Theo anh dài nương rẫy…
|
Tình em như cỏ hoa… Đó là mối tình giản dị, thiết tha, trong sáng và bất diệt trong lòng người lính. Và chính vì sự giản dị, thiết tha, trong sáng, bất diệt ấy mà mang đến cho nhà thơ một cảm nhận hết sức rõ rệt: Tình yêu thật sự là ngọn lửa hồng sưởi ấm, là mặt trời soi dọi suốt đời, là cánh buồm căng giúp người chiến sĩ vượt qua mọi đêm tối, mọi bão bùng sóng lộng. Khái quát đến tự nhiên từ trực cảm và đạt độ chân xác cao, tạo nên sức truyền cảm mãnh liệt. Nó đã thắp lên ngọn lửa ấm áp, niềm tin, niềm lạc quan vô bờ bến cho những chiến sĩ trong 20 năm hành quân không mỏi.
Chị H., tức Hiên, một hôm nghe được bài hát của nhạc sĩ Huy Du. Chị vô cùng xúc động, nghe nói phổ thơ của Ngọc Sơn từ miền Nam gửi ra, không biết có phải của chồng mình không? Còn Hồ Ngọc Sơn cho đến hôm nay cũng không biết người bạn chiến đấu nào, bằng cách nào đã gửi bài thơ Tình em ra miền Bắc. Chỉ khi vợ anh nhận được lá thư của anh có chép bài thơ này vào đầu năm 1963 (thư gửi từ mùa thu năm 1962), chị mới tin chắc đó là thơ của chồng tặng mình, chị đã vô cùng hạnh phúc. Bài thơ và ca khúc Tình em năm đó đã giúp chị có nghị lực ôn thi vào ĐH Bách khoa Hà Nội với tinh thần lập công “hậu phương thi đua với tiền phương”. Nó cũng là sức mạnh, là nguồn động viên to lớn giúp chị vượt qua chặng đường dài 10 ngày làm vợ, 12 năm chờ chồng. Lấy chồng từ năm 23 tuổi, đến năm 1973, sau Hiệp định Pa-ri, vào tuổi 35, chị mới được gặp chồng. Sau đó anh lại đi chiến trường Căm-pu-chia, mãi đến năm 1981, tức tròn 20 năm, gia đình mới thực sự đoàn tụ khi anh về công tác tại Tổng cục Chính trị… Anh chị may mắn vẫn kịp có một đứa con và sống hạnh phúc, trân trọng nhau suốt cả cuộc đời.
Cái hay của bài thơ là có điểm xuất phát và sự bảo đảm của một tình yêu lứa đôi hết sức nồng thắm, sâu sắc . Tình yêu đó được chắp cánh bởi tình yêu cách mạng, sự lạc quan nên càng có sức bay bổng và lan tỏa. Nhịp điệu câu thơ cũng như giai điệu âm nhạc tạo nên sự quấn quýt, ríu rít, quyện chặt không gì phá vỡ được tình yêu, không gì đè bẹp được sự xanh tươi, bất diệt của cuộc sống. Sự đóng góp của phương ngữ Quảng Ngãi (rời rợi), của những sông suối, cỏ hoa Tây Nguyên càng làm cho bài thơ tươi vui sinh sắc.
Nguyễn Sĩ Đại