Về bài thơ Áo đỏ của Vũ Quần Phương
Tôi nhớ vào khoảng 1985, 1986 gì đó, một buổi trưa sau giờ làm việc, ra sạp báo ở 71 Hàng Trống thì đọc được bài thơ Áo đỏ của Vũ Quần Phương in báo và thuộc luôn. Vào thời ấy, cũng rộ lên một nàng áo đỏ làm xôn xao đời sống văn học, xôn xao những câu thơ áo đỏ. Những câu chuyện xung quanh nhà thơ Phạm Tiến Duật là một thí dụ.
Nhà thơ Vũ Quần Phương kể lại với nhiều người, đầu năm 1973, tiếng bom của cuộc chiến tranh phá hoại vừa tắt nhưng Hà Nội còn ngổn ngang đổ nát. Những dòng người trên các con phố lầm lụi một màu xanh và xám, màu của phòng không. Đang chờ cắt tóc ở phố Khâm Thiên, chợt một cô áo đỏ đạp xe qua, làm bao nhiêu ánh mắt ngoái lại, sững sờ. Và chắc sững sờ nhất là nhà thơ Vũ Quần Phương…
Tôi không biết chắc bài thơ viết vào năm nào, nhưng biết chắc nó được in trong tập thơ Vầng trăng trong xe bò (NXB Văn học, 1988). Và đã in báo trước đó vài năm. Nguyên văn bài thơ như sau:
ÁO ĐỎ
Áo đỏ em đi giữa phố đông
Cây xanh như cũng ánh theo hồng
Em đi lửa cháy trong bao mắt
Anh đứng thành tro em biết không?
Về màu đỏ và áo đỏ
Bằng trực quan sinh động, từ xa xưa con người đã đồng hóa màu đỏ với màu lửa, màu máu, màu của mặt trời. Và nó thành tượng trưng cho tính cách mạnh mẽ, nhiệt huyết rực cháy, tinh thần cách mạng, sự hy sinh, tình yêu và sự hết mình. Nhiều nước chọn màu đỏ làm màu cờ để khẳng định sức mạnh dân tộc, khẳng định lấy máu để bảo vệ tự do. Khi chưa biết quang phổ ánh sáng mặt trời, người ta đã cho là màu đỏ gắn với sức mạnh. Đó là một nhận thức chính xác về mặt khoa học: Ánh sáng đỏ là ánh sáng có bước sóng dài nhất, mang năng lượng lớn nhất, dễ dàng xuyên qua khí quyển trái đất. Ngược lại, ánh sáng tím yếu nhất, thường giữ bị giữ lại ngoài tầng khí quyển. Còn lam, chàm thường bị dùng dằng, đùn đẩy ở tầng khí quyển, khúc xạ, tán xạ bởi bụi và nước làm nên màu xanh thơ mộng của bầu trời. Cho nên “Trời” không phải “Ông Xanh” – Không phải trời xanh đâu mà xanh vì ánh sáng/ Sự tán xạ lam chàm lên khí quyển/ Ra khỏi khí quyển này, trời lại trắng như không.
Trong văn chương cổ điển Việt Nam, có lẽ Chinh phụ ngâm có câu thơ hay nhất về áo đỏ Quân xuyên trang phục hồng như hà/ Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết (Áo chàng đỏ tựa ráng pha/ Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in). Đó là hình ảnh kiêu hùng, lãng mạn của người chinh phu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, một hình ảnh ước lệ được đồng hóa với những vẻ đẹp kỳ tuyệt của thiên nhiên. Áo bào đỏ xông pha giữa trận tiền kéo theo sức mạnh của cả đoàn quân…
Theo phong tục của Việt Nam và một số nước đồng văn thì áo đỏ là áo của cô dâu. Nó lên sự nồng nàn của tình yêu và sự khêu gợi, hấp dẫn đầy bí ẩn của người phụ nữ. Đó là màu của hạnh phúc, của những hy vọng không bao giờ tắt. Thơ Lưu Trọng Lư trước Cách mạng, bài “Nắng mới” có câu: Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội/ Áo đỏ người đưa trước dậu phơi. Có người đã nhầm rằng, áo đỏ là áo trẻ em. Mẹ Lưu Trọng Lư là vợ lẽ, dưới chế độ phong kiến vui ít, buồn nhiều, lại bị nhiều tầng đè nén, thậm chí bỏ rơi (Chập chờn sống lại những ngày không), nên mỗi hè về, có nắng mới, phơi cái áo đỏ ngày cưới như phơi lên kỷ niệm và thắp sáng hy vọng tươi mới của mình. Câu thơ lặng lẽ, người phụ nữ phơi áo bờ rào mà xốn xang, xúc động, bao ngụ ý bên trong!
Và có lẽ vì cái áo đỏ khêu gợi chăng, nên những kỹ nữ Trung Quốc cũng thường mặc áo đỏ. Thơ Bạch Cư Dị “Thay lời gái bán củi tặng kỹ nữ” có câu: Áo hồng cưỡi ngựa người chi đó/ Tiền Đường sớm sớm cứ phất phơ (Nhất chủng Tiền Đường giang bạn nữ/Trước hồng kỵ mã thị hà nhân?)
Nguyễn Bính cũng từng viết về áo đỏ: Có nàng áo đỏ đi qua đấy / Hương đượm ba ngày hương chửa tan (Mùa đông đan áo). Cô áo đỏ này hẳn là người thị thành, không phải gái quê mặc áo tứ thân và khăn mỏ quạ. Tôi không suy diễn vì cô gái đan len này đã thị thành, lại được lặp lại trong bài thơ Người con gái ở lầu hoa:
Nhà nàng ở gốc cây mai trắng
Trên xóm mai vàng dưới đế kinh
Có một buổi chiều qua lối ấy
Tôi về dệt mãi mộng ba sinh
Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn kể lại trong sách “Nguyễn Bính và tôi” thì người con gái này ở phố Bạch Mai, Hà Nội, tên là Nguyễn Thị Tuyên, mà các nhà thơ gọi cho đẹp là Tú Uyên, em gái của nhà văn Nguyễn Đình Lạp (1913-1952). Nguyễn Đình Lạp là một cây phóng sự xuất sắc, là tác giả của tiểu thuyết Ngoại ô và Ngõ hẻm. Chú ruột Nguyễn Đình Lạp là nhà cách mạng Nguyễn Phong Sắc (1902-1931), người đảng viên cộng sản đầu tiên của chi bộ cộng sản đầu tiên trong nước (7-3-1929, thành lập tại 5 D Hàm Long, Hà Nội); người Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ đầu tiên, người chỉ đạo Phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh.
Cũng trong Phong trào Thơ mới, một áo đỏ ám ảnh là của T.T.Kh. trong Bài thơ thứ nhất:
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
Nếu áo đỏ trong thơ Nguyễn Bính là một phẩm chất mới, một thời đại mới thì áo đỏ của T.T. Kh. là áo cô dâu, là thiếu nữ trinh nguyên, sự thuần khiết của quá khứ mà lòng người muốn giữ lại. Nên “áo đỏ sang nhà khác” được nhìn nhận như một sự mất mát, gợi buồn, làm lạnh cả ngọn gió!
Trong kháng chiến chống Mỹ, có một màu áo đỏ rực rỡ thủy chung trong thơ Nguyễn Mỹ. Nếu mặt trời không nguôi tắt nắng thì không chỉ cô gái hậu phương mà cả nước đã cháy lên một ngọn lửa tình yêu bất diệt, thắp sáng một niềm tin tất thắng. Màu đỏ chói ngời trong buổi chia ly không phải từ màu áo mà từ trái tim của cô gái và của người chiến sĩ, của tác giả là người được chứng kiến. Và thật ra là cả của một thời đại. “Bắt” được cái thần ấy, bài thơ trở nên ám ảnh. Từ ngữ không có gì lạ. Trần Đăng Khoa từng nói, thơ hay có ba điều: giản dị, xúc động và ám ảnh. “Cuộc chia ly màu đỏ” của Nguyễn Mỹ được viết năm 1964, trong hoàn cảnh chiến tranh. Thời ấy nằm lòng trong tim chiến sĩ, nay còn lay động nhiều lớp tuổi teen. Nguyễn Mỹ đã nén thêm vào áo đỏ một nồng độ tình yêu làm rực rỡ cả thiên nhiên, nén vào màu đỏ niềm hy vọng mà mọi thời gian, mọi thế lực đen tối không thể xóa nhòa:
Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ.
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly…
Cái màu đỏ như màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữa đêm gió rét…
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia ly…
Vào năm 1987, nhà thơ Phạm Tiến Duật có bài Áo đỏ em đi trong chiều tuyết trắng:
Tất cả đã trở về màu xám
Chỉ còn em và tuyết đối nhau thôi
Tuyết thì trắng chưa bao giờ trắng thế
Còn áo em rực đỏ giữa trời
Bởi như thế em trở thành ngọn lửa
Ấm một vùng tuyết lạnh xứ xa xôi...
Bài thơ mở đầu rất thích khi cho ba màu như ba phạm trù đối lập, thật ra chỉ có hai: màu đỏ của áo và màu trắng tận cùng của tuyết. Chết và sống; hiện hữu và hư vô; điểm và diện…; bài thơ như một bức tranh tuyệt đẹp. Chỉ tiếc hai câu sau, theo tiêu chí thông thường không phải không hay, nhưng xem ra nó cũng dễ hiểu quá, tầm thường quá so với sự mở đầu. Thậm chí, hai câu sau có thể cắt.
Áo đỏ trong thơ còn nhiều lắm. Nó vui như “Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon” hay nghiêm trang như “Một cụ già râu tóc trắng như bông/ Mặc áo đỏ cầm hương đi trước đám” của Đoàn Văn Cừ. Và buồn như một nỗi thất tình, một cảm nhận mưa sa gió táp: ”Áo đỏ em về trong ngõ trưa/Chiều nay lành lạnh gió sang mùa/ Hoa đăng hội ngộ tình thương nhớ/ Em hãy về đây kẻo gió mưa”…
Câu thần cú của Vũ Quần Phương và cái chết trở nên bất tử
“Nhãn tự” hay “từ khóa” chủ yếu của bài thơ “Áo đỏ” của Vũ Quần Phương chính là áo đỏ. Dứt khoát đây là bài thơ làm xong mới đặt đầu đề và đầu đề không thể không lấy cái nhãn tự ấy, cũng như câu thơ không thể không bắt đầu bằng từ “áo đỏ”. Đây là sự va đập mạnh mẽ nhất làm nẩy bật lên cảm xúc và ý tứ của bài thơ.
Tại sao “áo đỏ” lại tạo nên ấn tượng mạnh mẽ và lạ lùng như vậy đối với nhà thơ? Tôi chắc chắn rằng, vào thời điểm này (năm 2015), Vũ Quần Phương (hay bất cứ nhà thơ nào khác) khó có cảm hứng để làm được thơ về người áo đỏ chứ chưa nói để có câu thơ hay, bài thơ hay.
Suốt một thời kỳ chiến tranh kéo dài, cả nước phải tập trung cho một nhiệm vụ gần như duy nhất: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” thì cả nước thống nhất đến gần như đồng nhất. Cái tôi lặn vào cái ta. Tự do cá nhân phải hy sinh cho tự do của Tổ quốc. Con người cũng như cuộc sống nằm trong một khuôn thước nhất định. Sau giải phóng miền Nam hai năm, năm 1977 tôi mới được trở ra Bắc. Trước đây sống quen, không có cảm nhận gì rõ rệt. Nhưng lần ấy nhìn đường phố Hà Nội tối sẩm cả mặt mày vì chỉ rặt một màu xanh và xám, người Hà Nội vẫn gò lưng trên những chiếc xe đạp cũ càng, sao mà thương đến thế! Cái cổng pa-ra-bôn của ĐH Bách khoa được coi như biểu thị của kiến trúc hiện đại. Nhìn những căn hộ tập thể chỉ như những cái chuồng, tôi không hiểu sao con người lại có thể nhốt mình cả đời vào đó…
Áo đỏ của Vũ Quần Phương trở về biểu tượng nguyên thủy của nó là ngọn lửa. Ngọn lửa này ngang nhiên cháy lên giữa con phố chính Hà Nội, không sợ máy bay giặc, không sợ khuôn thước chật hẹp của cuộc đời. Nó khẳng định cái mới đã ra đời, cái mới đang lên. Nó không những không sợ cái cũ mà sự mạnh mẽ, rực rỡ của nó tỏa rạng, kéo theo sự biến hóa của chung quanh (cây xanh như cũng ánh theo hồng). Ai từng biết nhà thơ Vũ Quần Phương, đều thấy ông là người mực thước. Lúc này ông đã có vợ con và hẳn ngại nói chuyện yêu đương. Vậy mà ông dám “ngang nhiên” hạ bút viết Anh đứng thành tro em biết không tức là đã thú nhận mình đa tình, mình chevigai (chết vì gái) rồi còn gì! Tức là ông không sợ vợ nữa! Nếu coi đây là một bài thơ tình thì đúng vậy. Trước cái đẹp thì tình yêu phải đến, trước tình yêu thì phải cháy hết mình!
Thơ đa nghĩa, văn chương đa nghĩa. Tôi nghĩ cần hiểu thêm đây là bài thơ mang tâm thức thời đại. Và câu cuối chính là “thần cú” biểu thị nhận thức và thái độ của nhà thơ. Ba câu đầu chỉ là quan sát, có chút nghĩ ngợi, liên tưởng. Trong thơ, người ta thấy mình nghĩ là tầm thường; lấy lời lẽ mà giảng giải là vô duyên. Tự cháy bằng cảm xúc mới là đạt. Còn đột ngột bất hợp lý mà càng nghĩ, càng hợp lý, càng đúng với nhiều người, càng ám ảnh mãi thì đó là thần tình. Câu cuối cùng của Vũ Quần Phương trong bài thơ này đạt độ thần tình, làm cho cánh thơ bay vút lên. Nếu không có câu cuối, cả bài thơ chẳng có gì đáng nói. Hàng cây xanh chỉ ánh hồng lên giây lát; ngọn lửa cháy lên trong bao mắt… dù sao cũng còn bị động; còn nhà thơ từ một tác động khách quan, đã tự cháy lên, cháy hết. Một nồng độ cao, một số lượng chuyển thành chất lượng. Ta thấy cái mới không ở ngoài, mà ở chính trong nhà thơ. Đó chính là khát vọng tự do, khát vọng đổi mới, đổi mới triệt để; là yêu sống, ham sống; là mong mỏi được làm con người khác; là thiêu rụi mọi ràng buộc cũ xưa.
Thơ tứ tuyệt, người xưa gọi là tuyệt cú là bài thơ thường có bốn câu, có khi ba câu, có khi năm, sáu câu.
Có những bài cả bốn câu hay cả và cùng đối nhau như một bức tranh tứ bình. Thí như bài Tuyệt cú của Đỗ Phủ Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu/ Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên/ Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết/ Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền. Nhưng thường thì người ta chỉ dùng những câu đầu làm dẫn. Sự bất ngờ, đỉnh cao là ở câu ba và bốn; phổ biến là ở câu kết cuối cùng. Chẳng hạn như bài Uống rượu xem hoa mẫu đơn của Lưu Vũ Tích: Hôm nay uống rượu ngắm hoa/ Cạn đôi ba chén gọi là mua vui/ Chỉ e hoa nói nên lời/ Em không phải nở cho người già nua (Tản Đà dịch). Khủng khiếp hơn là bài Lũng Tây hành của Trần Đào với hai câu cuối Khả liên Vô Định hà biên cốt/ Do thị xuân khuê mộng lý nhân. Nghĩa là: Thật đáng thương thay cho tình cảnh: Người lính đã chết chỉ còn nắm xương bên dòng sông Vô Định, vậy mà trong giấc mộng của người vợ trong phòng khuê vẫn còn là người! Xin nói thêm một chút về thi pháp thơ Đường: Khả liên (khá thương) là thương cho tình cảnh, thương cho người lính đã chết hay thương cho người vợ ở nhà vẫn mơ về chồng; hay hơn nữa là thương cho đất nước đều đúng cả vì thường không dùng từ chỉ định, xác định. Vô Định cũng hàm nhiều nghĩa. Vô Định là tên một dòng sông ở tỉnh Thiểm Tây, biên giới của Trung Hoa với Hung Nô, một con sông hay đổi dòng nên gọi là Vô Định. Đồng thời nó cũng nói lên sự vô định, vô nghĩa của chiến tranh…
Bài thơ Áo đỏ của Vũ Quần Phương đạt mẫu mực của thi pháp tứ tuyệt.
Thơ nhại Áo đỏ trong đời sống
Một trong những dấu hiệu quan trọng của câu thơ hay, bài thơ hay là tự nó hình thành một khuôn mẫu, có thể lắp ghép được bằng các cấu kiện khác. Nói nôm na là có thể nhại được. Một dạo sau khi được in, lập tức có thơ chế rằng:
Váy ngắn em đi giữa phố đông
Hỏi rằng anh có thấy gì không
Mỗi lần váy cuốn theo chiều gió
Anh thấy hình như có cả …
Bài trước không biết của ai, nhưng nghe nói dị bản sau là của nhà thơ Quang Huy (mà không khéo của chính Vũ Quần Phương):
Váy ngắn em đi giữa phố đông
Hỏi rằng anh có thấy gì không
Bao nhiêu tôm cá bày ra cả
Anh đứng thành tro em biết không?
“Bao nhiêu tôm cá bày ra cả” là câu thơ của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn trong bài “Chợ cá Hội An”. Người làm bài thơ này chắc là để trêu chị Nhàn. Âu cũng là một giai thoại văn học.
Tôi không chắc mình hiểu được hết ý nhà thơ, nói hết được cái hay của bài thơ. Biết gì nói nấy, mạo muội trình bạn đọc, mong được lượng thứ vì những điều lỗ mỗ./.
Nguyễn Sĩ Đại