Hướng đến nâng cao sức khỏe người di cư Việt Nam
Ngày 7/7, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) phối hợp với Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại Việt Nam tổ chức Hội thảo "Khởi động chương trình nâng cao sức khỏe người di cư Việt Nam”.
Tại hội thảo, các đại biểu trao đổi về vấn đề di cư và sức khỏe người di cư Việt Nam; chia sẻ kinh nghiệm trong việc triển khai các chính sách, hoạt động nhằm đảm bảo sức khoẻ người di cư và đưa ra những khuyến nghị về sức khỏe người di cư Việt nam.
Toàn cảnh Hội thảo. |
Hồ sơ Di cư Việt Nam 2016 của Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao cho thấy, năm 2016 cả nước có gần 6 triệu lượt người Việt Nam xuất cảnh. Tỷ lệ nam - nữ xuất cảnh tương đương nhau (năm 2015, nữ xuất cảnh chiếm 49,7%). Người Việt Nam di cư ra nước ngoài cao nhất ở nhóm tuổi 20-39. Lý do chủ yếu của người Việt Nam di cư ra nước ngoài là làm việc và học tập.
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Phạm Vũ Hoàng chia sẻ: Kết quả Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 cho thấy, tổng dân số Việt Nam là 96,2 triệu người (2019), xếp thứ 3 trong khu vực ASEAN và xếp thứ 15 trên thế giới. Trong 5 năm qua, số người di cư từ 5 tuổi trở lên chiếm 7,3%, tương đương khoảng 6,4 triệu người. Các dòng di cư tại Việt Nam là: thành thị - thành thị (36,5%), nông thôn - thành thị (27,5%), nông thôn - nông thôn (26,4%) và thành thị - nông thôn (9,6%). Như vậy, dòng di cư chủ đạo tại Việt Nam là thành thị - thành thị và rất cách biệt so với các dòng di cư còn lại.
Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng với 65,4 triệu người trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi), chiếm 68 % tổng dân số. Số lượng dân số trong độ tuổi lao động lớn, mang đến nhiều lợi thế cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội nhưng cũng tác động rất lớn đến các dòng di cư ở nước ta.
Năm 2019, Bộ Y tế phối hợp với Tổ chức Di cư Quốc tế và Tổ chức Y tế thế giới tiến hành nghiên cứu, phân tích thực trạng sức khỏe người di cư tại Việt Nam nhằm xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe, các khoảng trống và ưu tiên đối với sức khỏe người di cư. Công trình ghiên cứu đã xác định một số rào cản đã tác động đến sức khỏe của người di cư và sự tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe người di cư. Đó là việc thực hiện chính sách chưa đồng bộ tại tuyến cơ sở, hệ thống giám sát sức khỏe người di cư chưa đầy đủ, còn nhiều hạn chế trong quan hệ đối tác và mạng lưới kết nối các bên liên quan, chưa thực sự lưu tâm về giới và thân thiện với người di cư từ phía người cung cấp dịch vụ y tế, nhân viên hành chính và cộng đồng. Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh tính quan trọng của việc tiếp cận liên ngành như thành lập nhóm công tác sức khỏe người di cư nhằm hỗ trợ kỹ thuật việc xây dựng và thực hiện các chính sách, mô hình, dự án sức khỏe phù hợp với người di cư.
Do dịch COVID-19, việc di chuyển, tiếp xúc của người di cư quốc tế cũng là một phần nguyên nhân làm gia tăng tình trạng lây lan giữa các quốc gia và trên toàn cầu. Bản thân những người di cư - nhóm dân số dễ bị tổn thương cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề như mất việc làm, giảm lương và đặc biệt là nguy cơ về sức khỏe, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình Phạm Vũ Hoàng nhấn mạnh.
Đa số các đại biểu đều cho rằng Việt Nam cần có những hoạt động nhằm nâng cao sức khoẻ của người di cư.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, cho rằng Việt Nam cần có chương trình chăm sóc sức khoẻ người di cư do số lượng người di cư nội địa lớn. Số người đi làm, đi học ở nước ngoài ngày càng gia tăng; tình hình dân số di cư được nhận định sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới... Trong khi đó, người di cư là nhóm dân số đặc biệt, họ phải đối diện với rất nhiều rủi ro liên quan đến sức khoẻ, môi trường, xã hội... Bảo vệ nâng cao sức khoẻ người di cư là công việc mang tính xã hội, nhân văn sâu sắc. Xây dựng chương trình nâng cao sức khoẻ của người di cư sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam nâng cao năng lực hội nhập, hợp tác trong lĩnh vực này với các nước trong khu vực và thế giới; là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của người di cư.
Các đại biểu cũng có ý kiến cho rằng khi xây dựng chính sách hỗ trợ người di cư nên phân rõ các nhóm di cư để tập trung chính vào hỗ trợ nhóm di cư yếu thế, nhóm cần hỗ trợ can thiệp và phân bổ nguồn lực hợp lý.
PV