Cô Tư Hồng
Ngày học phổ thông thì trích giảng văn học có nhắc sơ qua đến cô Tư Hồng với luận điệu không ấy thiện cảm. Có lần thày giáo tôi còn nhắc đi nhắc lại Tư Hồng là đồ me tây, ngày xưa dưới thời Pháp thuộc người phụ nữ nào lấy chồng tây là bị khinh miệt bị gọi bằng cái từ giễu cợt là me tây.
Tôi vẫn còn nhớ thầy giáo khi nói đến cô Tư Hồng thường nhắc đên câu tương truyền là của cụ Nguyễn Khuyến là khi cô được vua ban bảng “Tiết hạnh khả phong” như sau: Đĩ có tàn có tán, đĩ có hương án thờ vua. Thật là kinh khủng, nhưng thôi cũng thông cảm cho các nhà nho không thể làm gì trong cảnh nước mất nhà tan đành tìm chỗ trút giận vào bất kỳ ai, vào đâu vậy.
Thời thế đổi thay, với cách nhìn mới mẻ, chúng ta sẽ nhìn nhận cô Tư Hồng với góc độ khác. Về nguồn gốc xuất thân và đời tư ngày nhỏ của Cô Tư Hồng, các nguồn tài liệu đều chép rất sơ sài:
Tên cô là Trần Thị Lan, sinh năm 1868 trong một gia đình nông dân nghèo ở Hà Nam. Năm 17 tuổi cô bị lý trưởng ép duyên để trừ khoản nợ cha cô vay ông ta; cô bỏ trốn ra Thành Nam làm thuê rồi lấy một người bán bún xáo, sống với nhau hai năm, không có con. Sau đó ít lâu có một nhà buôn người Hoa tên Hồng ở Hải Phòng về Nam Định mua thóc rủ cô trốn theo ông ta và hứa sẽ trả nợ đậy cho cha cô.
Từ đó cô mang tên thím Hồng hay cô Hồng. Năm 1890 ông Hồng buôn bán thua lỗ bị phá sản, bỏ trốn biệt về Trung Quốc. Tình cờ cô làm quen với một phụ nữ có chồng là doanh nhân người Pháp rủ cô lên sống ở Hà Nội ; ai ngờ đó là bước ngoặt quan trọng trong đời cô.
Năm 1892 trong một buổi dạ hội nhân Quốc khánh Pháp 14 - 7 tại tòa Đốc lý, viên quan Tư Pháp Laglan chủ động làm quen rồi trở thành bạn thân của cô. Ít lâu sau hai người tổ chức đám cưới tại Câu lạc bộ sĩ quan trong thành. Từ đó cô có tên mới là Cô Tư Hồng. Và cũng từ đó cô bắt tay vào công cuộc kinh doanh lớn.
Ngay khi cô mới khai trương Công ty lương thực thực phẩm do cô đứng tên Giám đốc, cô đã may mắn trúng thầu hợp đồng cung cấp hàng cho quân đội Pháp đóng ở Phúc Yên đồng thời cung cấp nhu yếu phẩm cho các trại giam trên toàn cõi Bắc Kỳ. Nhờ quan hệ rộng và tài buôn bán cô đã trở thành gương mặt sáng giá trong giới thượng lưu Hà Thành.
|
Hai năm sau (1894) cô lại trúng gói thầu phá dỡ tường thành Hà Nội; đây là công việc khó khăn phức tạp đòi hỏi chủ thầu phải có đầu óc sáng suốt nhạy bén. Cô trả lương cao để thu hút sự cộng tác của những nhà chuyên môn có trình độ năng lực tổ chức, giỏi nghề và có tinh thần trách nhiệm như Nguyễn Quang Minh, Bạch Thái Bưởi... Cô đích thân về quê tuyển nhân công (ngày ấy gọi là phu). Cô không chỉ là người trực tiếp chỉ đạo
quản lý, điều hành công việc mà còn tự mình chỉ vẽ, đôn đốc việc dựng lán trại, xây bếp ăn, trạm xá... để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho hàng nghìn con người. Sau hai năm công việc hoàn thành. Cô tận thu số lượng lớn gạch đá đem xây biệt thự bề thế ở làng Hội Vũ (nay là phố Hội Vũ); xây dãy nhà ở khu vực Cửa Đông, xây trường Puginier (nay là trường Việt Đức).
Hai chiếc ghế đá đặt ở phố Lê Thái Tổ ngày nay là di sản từ ngày ấy sót lại.
Ngay chuyện này có lẽ cũng cần nói qua đôi điều. Tuy sách giáo khoa nhắc đến cô Tư Hồng rất sơ sài nhưng lại làm những cái đầu học sinh non nớt dễ bị ngộ nhận. Bọn trẻ con chúng tôi được dạy là cô Tư Hồng là người phá thành Hà Nội nên rất căm thù. Nói như thế làm lầm lẫn chủ thể, vì việc đánh chiếm và phá thành Hà Nội là người Pháp.
Việc của cô Tư Hồng chẳng qua chỉ là làm kinh tế. Người Pháp muốn mở rộng Hà Nội nên phá tường thành đi. Và cô Tư Hồng chỉ là một nhà thầu dân sự dỡ tường thành chứ đâu phải cô phá thành Hà Nội bằng súng đạn. Cô là phụ nữ nhưng đã thắng thầu một cách quang minh chính đại chứ không phải dựa hơi ông chồng Pháp như ngày đó người ta đàm tiếu.
Với số vốn khổng lồ tích lũy qua buôn bán và trúng thầu, cô được xã hội đánh giá là một nữ "phú gia địch quốc". Cô sống trong ngôi biệt thự đồ sộ, sang trọng, kiến trúc tân kỳ; có điện thoại và ô tô riêng là vật sở hữu cao cấp của quan lại Pháp - Nam thời ấy. Không bằng lòng với hiện tại, cô mở thêm hướng kinh doanh mới: Ký hợp đồng xuất khẩu gạo và phát triển giao thông vận tải đường thủy. Một điều ít người biết là trên tàu của cô chỉ thuyền trưởng và thợ đốt lò là đàn ông, còn hết thảy thủy thủ, nhân viên đều là phụ nữ...
Ngoài tài buôn bán làm giầu, Cô Tư Hồng còn được biết đến là một phụ nữ có lòng thương người, thích làm việc thiện, phóng tài sản cứu giúp người hoạn nạn. Ở đâu có thiên tai mất mùa đói kém, y rằng người của cô đã có mặt kịp thời phát chẩn cứu tế. Cô cũng thường can thiệp với nhà cầm quyền xin giảm án hay tha bổng cho những người phạm tội do nghèo đói.
Có lần hai tàu lớn chở đầy thóc của cô đang trên đường từ Nam ra Bắc qua miền Trung thấy dân bị cơn bão lớn tàn phá nhà cửa ruộng vườn, nhiều người chết đói; cô lệnh cho người nhà đem thóc phát hết cứu dân. Chuyện đến tai triều đình, vua Thành Thái ban cô tấm biển vàng "Lạc quyên nghĩa phụ"; sắc phong nhà vua viết "Nữ trung phong nhã chi bảo, hồng trần bạt tục. Thế thượng vân lôi chi hội, bạch thủ thành gia" nghĩa là Hào hoa phong nhã bậc nhất trong đám chị em, đàn bà khác thường. Gặp thời mây tuôn sấm dậy, tay trắng dựng cơ đồ.
Không rõ bà mất chính xác năm nào, chỉ biết mộ bà đặt ở cổng đền Hai Bà Trưng, bia mộ khắc vẻn vẹn ba chữ Cô Tư Hồng.
Với bà ngày ấy (kể cả bây giờ) luôn có hai luồng dư luận khen-chê khác nhau. Người khen đông hơn, còn chê phần lớn là những người ghen tuông đố kỵ. Một vài nhà thơ còn làm thơ, đặt câu đối moi móc đời tư của bà nhằm bêu riếu lăng nhục bà hết sức bỉ ổi.
Nói gì thì nói, ở giai đoạn lịch sử ấy nước ta còn chìm đắm trong đời sống nông nghiệp lạc hậu đói nghèo; một số người thức thời cũng phải nấp bóng nhà cầm quyền đô hộ để tiến thân, làm giầu. Riêng bà đã tự tìm cho mình con đường riêng không lệ thuộc ai, cạnh tranh với những đối thủ sừng sỏ Hoa kiều, Pháp kiều đủ biết bà là người tài cao chí lớn nhường nào!
Nhưng cái đáng ca ngợi nhất là bà luôn mở rộng vòng tay nhân đạo, nhiều lần cứu giúp đồng bào thoát chết đói ở những vùng thiên tai. Chả thế mà suốt trăm năm nay trên nấm mộ đơn sơ trơ trọi của bà vẫn được nhiều người thành kính thắp hương tưởng nhớ .
Tất nhiên, thành công của cô Tư Hồng cũng có một phần nhờ dựa vào thế ông chồng người Pháp. Nhưng xin hãy rộng lòng ra để thấy. Cô ấy sống trong thế giới mà chúng ta vẫn nói là tồi tệ, xâu xé nhau mà sống thì phải theo thế thời thôi.
Ngay cả bây giờ thử hỏi hầu hết cái đám đại gia Vịt nếu không bám víu vào lũ quan tham biến chất cạp đất của dân lành hốc nhét cho đầy diều thì chúng có tí ta tí tởn vung tiền ra ăn chơi được không và cũng không hiếm nữ quan đã tiến thân bằng cách hối lộ tình dục, lên giường với lãnh đạo?
Dù sao, chúng ta là hậu nhân, trước đây do không biết do không được đọc nhiều về cô nên cũng có đôi lời không phải với cô (đúng ra có thể gọi là cụ nhưng xin phép gọi cô cho thân mật). Xin có lời tạ lỗi chân thành cùng cô.
Đỗ Quý Thích