Phải chăng Lê Long Đĩnh bị hàm oan?
Lịch sử là một dòng chảy tự nhiên, chúng ta không thể kéo lại thời gian để làm minh bạch. Thậm chí có những sự kiện cách đây có vài mười năm mà bao nhiêu hội thảo vẫn không làm rõ được bản chất. Nhưng chúng ta vẫn có quyền xới lại những nghi vấn để hiểu được phần nào của quá khứ làm bài học cho hôm nay và ngày mai.
Đền thờ vua Lê Đại Hành |
Gần đây, lãnh đạo Hà Nội đã đổi mới, "dũng cảm" bỏ qua cái chuyện ghi trong sử sách phong kiến là Mạc Đăng Dung cùng 40 thuộc hạ từng chân trần, không mặc áo lưng mang roi phủ phục dưới chân tướng nhà Minh là Mao bá Ôn dâng tất cả hộ khẩu hộ tịch của dân Đại Việt đầu hàng nhà Minh, mà đặt tên một con đường mang tên Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông, Tất nhiên giới sử học cũng nên có chính kiến.
Người viết muốn các nhà sử học nghiên cứu, đánh giá lại để một số nhân vật lịch sử đã bị mang tiếng oan có thể lấy lại sự trong sạch và thanh danh của mình. Hôm nay bắt đầu bằng nhân vật Lê Long Đĩnh, tương truyền các sử gia phong kiến gọi là "Lê ngọa triều":
Những nghi vấn về sự thật lịch sử
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, Lê Long Đĩnh được coi là hoàng đế tàn bạo, hoang dâm nhất; nhắc đến ông người ta nghĩ ngay đến hình ảnh một hôn quân, bạo chúa. Ngay trong sách giáo khoa lịch sử mà ngày xưa chúng tôi học có nhắc đến chuyện vua Lê Long Đĩnh từng dóc mía trên đầu nhà sư làm học sinh đều căm hận. Thế nhưng lịch sử dường như quá thiên lệch khi chỉ nói nhiều đến tội lỗi và những hành vi càn rỡ, hiếu sát mà ít nhắc đến công tích của ông.
- Về đối ngoại, Lê Long Đĩnh vẫn duy trì quan hệ ngoại giao với nhà Tống như thời trị vì của các đời vua trước. Mối quan hệ này được xây dựng sau khi quân Tống bị đại bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt năm Tân Tị (981).
Do đó với nước ta nhà Tống tỏ thái độ mềm dẻo, không dám làm căng, sợ rằng sinh chuyện binh đao. Chính vì thế có thể nói việc đối ngoại thời Lê Long Đĩnh đã đạt được một số thuận lợi đáng kể, thậm chí nhà Tống còn e dè chỉ sợ làm mất lòng ông. Tháng 8 năm Đinh Mùi (1007) vua Tống phong cho Lê Long Đĩnh làm Giao Chỉ quận vương, lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ.
- Về đối nội, dưới triều Lê Long Đĩnh bộ máy nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện mô phỏng theo quan chế của nhà Tống. Vua vừa là người giải quyết mọi công việc chính trị, vừa là quan tòa tối cao, vừa là thủ lĩnh quân sự. Năm Bính Ngọ (1006) Lê Long Đĩnh “đổi lại quan chế và triều phục cho các quan văn võ và tăng đạo theo đúng như nhà Tống” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Một vấn đề quan trọng nữa mà triều Tiền Lê tiến hành là tập trung quyền lực trên một lãnh thổ nhất định, dẹp yên các thế lực chống đối, các lực lượng cát cứ để quy tụ tính thống nhất quốc gia. Những cuộc đánh dẹp, chinh phạt phản loạn được các vua Tiền Lê thực hiện nhiều lần. Riêng thời Lê Long Đĩnh cầm quyền, ông đã 6 lần trực tiếp dẫn quân chinh chiến.
+ Lần thứ nhất, đó là vào cuối năm Ất Tị (1005) ngay sau khi lên ngôi, Lê Long Đĩnh đi dẹp bạo loạn giữa các anh em, giết chết Trung Quốc Vương (Lê Long Kính), bức hàng Ngự Bắc Vương (Lê Long Cân) và Ngự Man Vương (Lê Long Đinh). “Từ đấy về sau các vương và giặc cướp đều hàng phục cả” (Đại Việt sử ký toàn thư).
+ Lần thứ hai, khi vừa dẹp xong cuộc nổi loạn của các anh em thì vua nghe tin giặc Cử Long tiến công đánh chiếm đến cửa biển Thần Đầu (Ninh Bình) bèn dẫn quân đi đánh.
+ Lần thứ ba: Vào năm Mậu Thân (1008) Lê Long Đĩnh đi đánh châu Đô Lương (nay thuộc Hàm Yên, Tuyên Quang) và châu Vị Long (nay thuộc Chiêm Hoá, Tuyên Quang).
+ Lần thứ 4: Cũng trong năm Mậu Thân (1008) vua lại dẫn quân đi đánh Án Động (nay không rõ ở đâu).
+ Lần thứ 5: Vào cuối năm Mậu Thân (1008) đi đánh Hoan Châu (Nghệ An ngày nay) và châu Thiên Liễu (nay không rõ ở đâu).
+ Lần thứ 6: Khi ấy là mùa thu tháng 7 năm Kỷ Dậu (1009) Lê Long Đĩnh đem quân đánh các châu Hoan Đường và Thạch Hà (nay thuộc Hà Tĩnh).
Công việc bình định của triều Tiền Lê qua các hoạt động quân sự, về cơ bản đã xác lập được quyền lực chính trị của triều đình phong kiến trung ương, kiểm soát được một phần lãnh thổ rộng lớn.
Để tạo thuận lợi cho việc vận chuyển đi lại, vừa phục vụ mục đích quân sự, vừa giúp lưu thông buôn bán được thuận lợi, Lê Long Đĩnh tiếp tục cho mở đường, đào kênh như dưới thời vua cha.
Đầu năm Kỷ Dậu (1009) vua theo lời tâu của đô đốc Kiển Hành Hiến đã xuống chiếu cho quân dân Ái Châu (Thanh Hoá) đào kênh, đắp đường và lập ụ bia để ghi số dặm đường từ cửa quan Chi Long (nay thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa) đến sông Vũ Lung. Tại đây Lê Long Đĩnh còn cho đóng thuyền, đặt đò ở Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung để chở người qua lại.
Tháng 7 cùng năm vua lại sai Phòng át sứ Hồ Thù Ích đem 5.000 quân của châu Hoan Đường (Nghệ An) sửa chữa đường từ châu ấy đến cửa biển Nam Giới để đi lại cho thuận tiện.
Lĩnh vực văn hoá tư tưởng cũng được Lê Long Đĩnh quan tâm đến, năm Đinh Mùi (1007) vua “sai em là Minh Xưởng và Chưởng thư ký Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin cửu kinh và kinh Đại Tạng. (Khâm định Việt sử thông giám cương mục).
Trong đó Đại Tạng là bộ kinh lớn của Phật giáo, còn cửu kinh là chín bộ sách kinh điển của Nho giáo Trung Quốc bao gồm: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Hiếu kinh, Luận ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ.
Các hoạt động văn hóa dân gian thời kỳ này cũng rất phát triển, triều đình phong chức Ưu bà cho một số nghệ nhân để dạy cung nữ, binh lính múa hát. Trong lễ hội, những cuộc thi đấu vật, đua thuyền… diễn ra sôi động, thậm chí có những cuộc thi được coi là nghi thức quốc gia.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng Lê Long Đĩnh đã thực hiện được một số công trạng đáng ghi nhận trong thời gian làm vua, chứ không phải chỉ toàn bỏ bê chính sự, suốt ngày lao vào ăn chơi hưởng lạc và làm những việc tàn bạo.
Làm sao dân có thể vẫn thờ một người bị khinh ghét đến vây? |
- Và điều lạ lùng khó giải thích nữa là nếu Lê Long Đĩnh, một hôn quân bạo chúa, tàn ác nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, bị sử sách và người đời phê phán, nguyền rủa nhưng vì sao ông lại được thờ phụng? Tại chính điện thờ ở đền vua Lê (Hoa Lư, Ninh Bình), phía bên tay phải tượng vua Lê Đại Hành là một bức tượng nhỏ, đó chính là tượng Lê Long Đĩnh.
Chúng ta đều biết nhân dân là vị quan toà công minh nhất, phán xét đúng đắn nhất, vì thế những anh hùng dân tộc, những người có công lao với dân với nước đều được lập đền thờ tưởng nhớ, hương khói đời đời. Do vậy nhân dân không thể nhầm lẫn đến mức hồ đồ khi lại thờ phụng một ông vua tàn ác như Lê Long Đĩnh
Nếu sử chép đúng thì Lê Long đĩnh bệnh năng không thể ngồi dậy được đến mức thiết triều còn phải nằm (Lê Ngọa Triều) thì làm sao trong thời gian ngắn ngủi 4 năm trị vì ông có thể 6 lần dẫn quân nam chinh bắc chiến (lần cuối là 3 tháng trước khi chết). Chả nhẽ ông nằm để cho người khiêng xông pha chiến trận?.Nếu nói ông là người bạo ngược thì làm sao lại quan tâm đến việc phổ biến kinh phật cho dân chúng?
Tất cả những điều nêu trên cũng đều trích từ sách của các sử gia phong kiến nên đưa đến nhận xét chính các sử gia cũng không thống nhất về vị vua cuối này của nhà Tiền Lê.
Tóm lại còn nhiều vấn đề nghi vấn chúng ta không thể máy móc thụ động phụ thuộc vào những gì các sử gia phong kiến ghi lại. Có thể các sử gia không ưa Lê Hoàn vì có nghi án thông dâm, thông đồng với Dương Vân Nga sát hại cha con Đinh Tiên Hoàng mà ghét lây Lê Long Đĩnh chăng?. Cần có nghiên cứu chuyên sâu đánh giá công tội của vua Lê Long Đĩnh một cách khách quan những giả thuyết ấy không để một nhân vật lịch sử bị hàm oan.
Đỗ Quý Thích