Phác thảo chân dung nhà báo
Đoàn Phú Tứ - Long đong, chìm nổi một cuộc đời (Phần III)
Sau giải phóng thủ đô, từ năm 1956, Đoàn Phú Tứ đi dạy văn ở trường Albert Sarlaut, nhưng chỉ được ít lâu thì trường này giải tán, và ông thất nghiệp.
|
Dù có nhiều bạn bè, văn hữu, nhưng đến đận này, ông không được giúp đỡ bao nhiêu, phần vì tâm lý “phú quý dịch giao” của thế nhân, phần vì không khí văn nghệ “một thờỉ”, và phần nữa khá quan trọng: sống giữa những ngày tháng cơ chế kinh tế bao cấp “duy ý chí” vây quanh, biết bao văn nghệ sĩ “quân tử” cũng đang phải mướt mồ hôi trong cảnh đời “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch…”.
Do vậy, dù tâm có nhưng họ cũng đành bất lực. Trợ giúp được ít nhiều về tinh thần cho Đoàn Phú Tứ lúc này chỉ có Nguyễn Xuân Sanh. Tác giả của “Buồn xưa” đã đến thăm bạn cũ nhiều lần trong những tháng ngày khó khăn của cuộc sống.
Những “món vặt” trong gia đình thì có Thế Lữ và Vũ Đình Hòe thay nhau trợ giúp. Ngoài ra còn có Nguyễn Lương Ngọc và nhóm nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Đây là những người bạn đã giúp đỡ gia đình Phú Tứ được nhiều và toàn diện hơn cả. Nếu không có họ thì có lẽ gia đình Đoàn Phú Tứ đã không qua được cảnh nghèo khó trong cái thời cuộc cũng khó khăn không kém này.
Cuộc sống gia đình tác giả “Màu thời gian” càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết khi hai vợ chồng có thêm hai người con Đoàn Như Anh (1956) và Đoàn Phú Thăng (1958). Bảy miệng ăn nhưng chỉ trông chờ vào mỗi đồng lương của bà Khiêm, thật không còn gì nghiệt ngã bằng.
Sống dưới thời bao cấp, đồng lương ấy có khác gì “gió vào nhà trống”... Ba mươi năm vật giá leo thang dưới đất trong đó có 10 năm đồng thời bom đạn không lực Huê Kỳ leo thang trên trời, chẳng rõ nhờ phép lạ nào mà cái hộ bảy nhân khẩu này có thể vượt qua được mọi nỗi gian nan?
Nếu có phép lạ, hẳn phần nhiều là từ đôi bàn tay tần tảo tuyệt vời và nghị lực phi thường của cô thiếu nữ quân nhân Trung đoàn thủ đô xưa. Bà đã quần quật với đủ mọi nghề phụ bên cạnh công việc chính của một giáo viên và một nhân viên kế toán.
Hết chăn nuôi lợn gà đến may thuê, đan dệt len, rồi bán gạo, làm bánh rán,... tất cả chỉ để nuôi sống cái gia đình đông đúc này. Nói chuyện với bạn bè và các con, Đoàn Phú Tứ luôn tỏ lòng biết ơn với người vợ “kỵ tuổi” của mình.
Năm 1989, bà Nguyễn Thị Khiêm lâm bệnh nan y. Dù gia đình đã cố gắng chữa chạy nhưng đến ngày 4-7-1989, bà đã vĩnh biệt cõi trần không một lời trăng trối. Người vợ đảm đang, người mẹ tần tảo ấy đã ra đi lặng lẽ như chính những chắt chiu lặng lẽ mà bà đã làm cho gia đình. Cái chết của bà khiến cho Đoàn Phú Tứ vốn ít nói càng trở nên âm thầm kín tiếng. Ông luôn giam mình trong nhà, rất ít khi bước chân ra ngoài.
Rồi một ngày trung tuần tháng 9 cùng năm, khi đang ngồi dạy cháu nội học, Đoàn Phú Tứ bỗng ngã ngửa người bất tỉnh. Lúc đó là khoảng 11 giờ trưa. Đến 4 giờ chiều, các con đưa ông vào bệnh viện Saint Paul, trưa hôm sau lại chuyển ông sang bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Một tuần lễ điều trị ở bệnh viện, Đoàn Phú Tứ lúc tỉnh lúc mê, nhưng hôn mê có xu hướng ngày càng sâu. Được bác sĩ cho biết cha mình khó qua khỏi, các con ông đã làm thủ tục đưa người cha về nhà.
Hôm sau, bước sang giờ Ngọ, trước khi vĩnh biệt cõi trần chừng 30 phút, Đoàn Phú Tứ bỗng hồi tỉnh hẳn lại, nói mấy câu mơ hồ, đưa mắt nhìn quanh như gửi lời chào cuối cùng, rồi cũng không một lời trăng trối - lặng lẽ đi vào cõi hư vô... Đó là lúc 11 giờ 30 ngày 20-9-1989.
Vậy là hai số phận chịu nhiều nắng sương của cuộc đời đã được yên nghỉ. Nơi đây, giữa không gian bao la của đất trời, với tiếng chim thanh trong gió xanh, có hai trái tim chung nhịp đập nằm cạnh nhau, dù rằng nấm mồ của họ đã xanh cỏ từ bao giờ .. .
Nhắc đến Đoàn Phú Tứ, chúng ta thường nhớ ngay đến bài thơ bất hủ “Màu thời gian” với ngôn ngữ đài các, gọt giũa, kiêu sa và tứ thơ kín đáo, thâm trầm, sâu sắc. Bài thơ nhẹ nhàng, thanh thoát, đầy tinh tế này đã làm lay động tâm hồn của biết bao thế hệ độc giả Việt Nam. Bởi vậy chẳng có gì khó hiểu khi nhiều người chỉ biết đến Phú Tứ với tư cách một nhà thơ luôn thả hồn mình bay bổng với những âm điệu, vần điệu...
Kỳ thực cả cuộc đời Phú Tứ, thơ chỉ là những xúc cảm dâng trào trong những thời điểm nhất định, còn kịch mới là tâm huyết, là đam mê và là sự sống của ông. Làm quen với báo chí từ rất sớm, đây chính là phương tiện và là miền đất để ông gửi gắm các tác phẩm cùng những suy nghĩ, đánh giá của mình về kịch. Với các bút danh Ngộ Không, Tam Tinh và Đoàn Phú Tứ, nhà báo Phú Tứ đã đem đến cho bạn đọc những cái nhìn mới mẻ về môn nghệ thuật rất mới lúc bấy giờ: kịch nói.
Trước tiên, phải khẳng định rằng con đường đến với báo chí của Đoàn Phú Tứ rất tự nhiên. Làm báo vốn không phải là mục tiêu, là đam mê hay ước muốn trong cuộc đời của Đoàn Phú Tứ. Nó đến nhẹ nhàng, bình thường, như cái duyên sẵn có, chỉ chờ ngày giao cắt... Đó là khi ông học năm thứ nhất bậc Thành chung, năm 1925.
Trong khi lũ bạn đồng trang lứa vẫn chỉ biết ngày ngày cắp sách tới trường thì cậu bé Phú Tứ đã sớm say mê tìm tòi sáng tác. Mới 15 tuổi, nhưng tố chất nghệ thuật trong ông đã được bộc lộ. Theo như Nguyễn Lương Ngọc, bạn học và cũng là bạn thân của Đoàn Phú Tứ, thì cái thiên hướng nghệ thuật ấy của ông có được một phần là nhờ phương pháp giảng dạy đặc biệt của người thầy dạy môn Văn học Việt Nam.
Cách dạy đó gần giống với cách giảng dạy bây giờ. Thầy sẽ nêu bài văn học buổi sau để trò soạn bài trước ở nhà. Không giới hạn về nội dung soạn, trò có thể thoải mái viết những gì mình hiểu, mình cảm, mình nghĩ về bài học. Hôm sau đến lớp, thầy sẽ gọi học sinh đọc bài của mình rồi nhận xét, chấm điểm. Phương pháp dạy này tạo điều kiện cho học trò chủ động suy nghĩ, chủ động lập luận, chủ động khám phá cái hay, cái đẹp của bài văn. Chính nó đã đem lại niềm yêu thích văn chương cho lũ học trò. Và Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc chỉ là hai trong số những cậu học trò đó.
Tại sao người viết lại lấy mốc 1925 mà không phải là mốc 1933 , khi bài thơ “Một buổi chiều Xuân” được đăng trên báo Phong hóa của Tự lực văn đoàn? Nếu theo như phần trên đã đề cập thì “Một buổi chiều Xuân” chính là tác phẩm đầu tay của Đoàn Phú Tứ ra mắt “làng báo” Việt Nam.
Thế nhưng kỳ thực người viết không dám khẳng định chắc chắn điều này. Bởi theo như Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam (Nguyễn Đức Phiên xuất bản 1942) thì Phú Tứ đã bắt đầu “viết văn từ năm 1925, lúc còn học lớp nhất. Những bài văn đầu tiên là những bài từ khúc đăng báo Đông Pháp”. Điều này xem ra có vẻ hợp logic với những thông tin mà Nguyễn Lương Ngọc đã kể lại.
Chỉ tiếc rằng hiện chúng ta không có trong tay cả những bài từ khúc năm 1925 lẫn bài thơ “Một buổi chiều xuân” năm 1933 nên không rõ giai thoại nào chính xác hơn. Thời gian và chiến tranh đã làm cho những bút tích một thời của Phú Tứ không còn được lưu giữ.
Tuy vậy, dù tác phẩm đầu tay đăng báo của Phú Tứ có là bài thơ hay bài từ khúc đi chăng nữa, đó vẫn là những tác phẩm đầu tiên rất đáng trân trọng của một con tim yêu nghệ thuật và say mê nghệ thuật. Không phải kịch - niềm đam mê trong suốt cuộc đời - khởi đầu cho sự nghiệp của ông, nhưng những vần thơ này đã tạo bước đà đưa ông đến với độc giả và cả khán giả của mình.
Nói như vậy là vì kể từ bài thơ “Một buổi chiều xuân”, Phú Tứ đã cộng tác thường xuyên với báo Phong hóa. Tên ông xuất hiện liên tục trên báo và phụ trương báo với bút danh Đoàn Phú Tứ. Lần này không còn là những bài thơ hay những bài văn vần nữa mà chính là những vở kịch đầu tay của ông: Con chim xanh, Mơ hoa, Những bức thư tình, Hận ly tao, Kiều Liên…
Có thể nói, sự xuất hiện của những vở kịch ngắn này đã thổi một luồng gió mới vào văn học nghệ thuật Việt Nam, nhất là nghệ thuật sân khấu Việt Nam.
Khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ XX, văn học nghệ thuật Việt Nam bước vào công cuộc hiện đại hóa, một mặt tiếp thu những tinh hoa của nghệ thuật phương Tây, một mặt bảo lưu những giá trị truyền thống của dân tộc. Trên con đường cách tân đó, kịch nói đã ra đời và trở thành một thể loại mới mẻ, thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng.
Một trong những người đầu tiên có công sáng lập ra nền kịch nói Việt Nam chính là Đoàn Phú Từ. “Về mặt hoạt động biểu diễn, Thế Lữ là người đi tiên phong. Về mặt sáng tác kịch bản, Vi Huyền Đắc và Đoàn Phú Tứ là những lá cờ đầu” - đó chính là nhận xét của hai tác giả Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý trong cuốn Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam (NXB Văn hóa - 1978).
Để có thể nói tường tận những đóng góp của Đoàn Phú Tứ trong môn nghệ thuật sân khấu này thì có lẽ phải mất hàng trăm trang giấy. Nó cũng không phải là mục đích chính của người viết trong bài tiểu luận này. Ở đây người viết chỉ muốn nhấn mạnh vai trò của những vở kịch đầu tiên của Đoàn Phú Tứ.
Tuy chỉ là những vở kịch ngắn, nhưng chính nó đã góp phần giới thiệu môn nghệ thuật mới này tới công chúng nói chung và độc giả báo Phong hóa nói riêng. Từ việc làm quen với những câu chuyện và tình tiết trên báo, độc giả dần dần say mê và thích thú với thể loại mới này.
Để rồi khi các ban kịch, đoàn kịch bán chuyên nghiệp và chuyên nghiệp ra đời, một lượng đông đảo khán giả đã tích cực đến rạp cổ vũ cho môn nghệ thuật tân tạo này.
Vậy là từ những bài từ khúc mang màu sắc cổ văn, Đoàn Phú Tứ đã rẽ hướng chuyển sang viết kịch, đóng góp một mảng đề tài mới cho các báo ngày đó. Chủ đề chính trong những vở kịch của ông lúc này thường là về tình yêu. Tuy nhiên, thứ tình yêu trong kịch của Phú Tứ không mang màu sắc lãng mạn mà lại mang âm hưởng “bi kịch”. Thoạt nhìn nó có vẻ “hão huyền”, “phóng phiếm” nhưng ẩn sâu bên trong lại là những ý vị đậm đà mà tác giả “Màu thời gian”muốn gửi gắm.
Những năm tiếp theo, Đoàn Phú Tứ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động sáng tác kịch. Bước chuyển biến mạnh mẽ nhất trên con đường nghệ thuật của ông chính là khi ông quyết định xây dựng ban kịch Tinh hoa vào năm 1936. Với sự giúp sức của những người bạn cùng tâm huyết: Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Xuân Khoát,…
Ban kịch Tinh hoa đã đi vào hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của nghệ thuật sân khấu kịch nói Việt Nam. Đêm diễn đầu tiên của ban kịch Tinh hoa được tổ chức tại nhà hát Tây Hà Nội vào tháng 3/1937. Trước ngày diễn ra mắt, trên các báo thời đó đồng loạt đăng tải quảng cáo giới thiệu buổi diễn này. Đây được coi là một sự kiện “lớn” vì Tinh hoa chính là tổ chức bán chuyên nghiệp đầu tiên của nghệ thuật sân khấu kịch nói Việt Nam./.
Thái Hà