Phác thảo chân dung nhà báo
Đoàn Phú Tứ - Long đong, chìm nổi một cuộc đời (Phần II)
Tại xứ Thanh, Đoàn Phú Tứ có rất nhiều bạn bè. Mọi người rất quý mến và luôn quan tâm giúp đỡ ông, đặc biệt là ông Đặng Thai Mai.
|
Thế nhưng chưa tròn một năm sống trên đất Thanh, ông lại quyết định tạm biệt miền đất này. Cùng với hai người bạn đều là nghệ sĩ, ông vượt dãy Tam Đảo quay trở lại Thái Nguyên. Lúc đó là đầu mùa hè 1948 .
Khoảng 2 năm rưỡi sống và công tác trên chiến khu Việt Bắc, Đoàn Phú Tứ hoạt động khá sôi nổi. Ông tham gia tòa soạn tạp chí Văn nghệ (cơ quan của Hội Văn nghệ Việt Nam); cùng Thế Lữ và Phạm Văn Khoa phụ trách Thường vụ Ban chấp hành Đoàn sân khấu Việt Nam (được thành lập trong Hội nghị Văn nghệ toàn quốc năm 1948); tham gia Ban Thường vụ trung ương của ban chấp hành Hội Văn hóa Việt Nam (được thành lập trong Đại hội Văn hóa toàn quốc năm 1948) cùng Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Ngụy Như Kontum, Tô Ngọc Vân, Trần Huy Liệu, và Trần Văn Giáp.
Năm 1949, ông đi chiến dịch sông Thao cùng bạn bè nghệ sĩ: Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Trần Đăng, Tô Hoài, Thôi Hữu,... Cũng trong năm này, ông tham gia giảng dạy tại trường Trung học kháng chiến ở Đào Giã - Phú Thọ và tham gia Hội nghị Tranh luận văn nghệ (tháng 9- 1949).
Năm 1950, ông giảng về Phương pháp viết kịch ở trường Văn nghệ nhân dân (hoạt động do Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức, diễn ra vào tháng 4, 5 và 6), và tham gia tổ chức Hội nghị tranh luận sân khấu vào tháng 8 . Có thể nói hai năm rưỡi này là hai năm rưỡi khá bận rộn của Đoàn Phú Tứ. Điểm nhấn của nó là việc ông cho xuất bản vở kịch Trở về (1949), Đi tìm chủ từ trong vài đoạn văn Đoạn trường Tân thanh (nghiên cứu ngữ văn - 1949), Một điểm về chính tả (nghiên cứu ngôn ngữ học - 1950)... Ngoài ra còn có một sự kiện đã trở thành giai thoại của Đoàn Phú Tứ, đó là vụ việc “đám cưới Trần Dụ Châu”.
Sự kiện này xảy ra vào mùa đông năm 1949. Sau khi cùng một đoàn nhà văn đi thăm và úy lạo các đơn vị bộ đội trở về thì Đoàn Phú Tứ nhận được thiệp mời của Trần Dụ Châu (Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu của quân đội Việt Minh) đến dự lễ cưới do Trần Dụ Châu đứng ra tổ chức cho một thuộc cấp đặc biệt thân cận, phụ trách công tác vật tư, tên là Lê Sĩ Cửu. Đám cưới được tổ chức tại ngôi nhà của Lê Sĩ Cửu, nằm trên một ngọn đồi. Trong khi bộ đội ta đang chịu đói, chịu rét, hy sinh xương máu ngoài chiến trường thì đám cưới này được tổ chức hết sức xa hoa.
Người ta kể lại rằng “sau khi nhà bếp làm thịt, những lông gà lông vịt đổ xuống trôi lềnh bềnh đến mấy ngày mà vẫn chưa hết. Và cũng không thiếu một thứ rượu ngon nào trong bữa tiệc cưới này. Thuốc lá thơm như Phillip Morris, Cotab, Camel, 3 con 5… đem ra mời khách hút, không phải từng điếu mà là từng bao. Ăn uống no say xong là có luôn dăm ba cái bàn đèn thuốc phiện để đãi khách” (Hồi ký Phạm Duy, tập 2, chương 33). Và Đoàn Phú Tứ đã bước vào phòng cưới ấy như một người trong cơn mê. Ông không thể tin nổi những gì đang diễn ra trước mắt.
Đến khi Trần Dụ Châu mời ông lên đọc một bài thơ mừng cô dâu chú rể và quý vị tân khách thì ông đã nhìn thẳng vào mặt Trần Dụ Châu, nói lớn, nhấn mạnh từng từ một cho tất cả những người dự tiệc cưới đều nghe thấy: “Tôi xin đọc tặng vị chủ hôn, cô dâu chú rể và tất cả các vị có mặt hôm nay, một câu thơ hay nhất mà tôi vừa nghĩ ra. Câu thơ đó như sau: Bữa tiệc cưới chúng ta sắp chén đẫy hôm nay, được dọn bằng xương máu của chiến sĩ”. Vừa dứt câu, Trần Dụ Châu tái mặt quát to: “Láo”, còn tên vệ sĩ của hắn thì ngay lập tức xông tới tát bốp vào mặt Đoàn Phú Tứ. Đoàn Phú Tứ không nói gì, lặng lẽ rút khăn tay lau mặt, ném khăn xuống đất rồi nhổ vào cốc rượu đỏ như máu đầy tràn trước mặt, và đĩnh đạc bước ra khỏi phòng cưới. Ngay đêm hôm đó ông viết một bức thư dài gửi lên Hồ chủ tịch, trình bày toàn bộ sự việc. Và Trần Dụ Châu đã bị lãnh án tử hình do chính Hồ chủ tịch ký.
Không biết có phải vụ việc này đã khiến tâm trí ông trở nên ngổn ngang, hay do “đôi chân không chịu đứng yên” mà vào cuối thu năm 1950, ông đã giã từ Việt Bắc để quay trở lại Thanh Hóa. Trong lần trở lại này, ông tham gia dạy học ở trường trung học Trần Phú và in cuốn sách mỏng Phương pháp viết kịch (NXB Minh Đức - 1950).
Sau đó mấy tháng, ông lại ngược đường lên Bắc vào sống ở Hà Nội. Trên đường đi, ông tình cờ gặp chú bảy Đoàn Phú Thực ở thị trấn Kim Tân, huyện Thạch Thành. Chú bảy đã hết lời khuyên can người anh của mình, nhưng Đoàn Phú Tứ vẫn không thay đổi ý định về sinh sống ở thủ đô.
Ngày 20-7-1951, Đoàn Phú Tứ đặt chân đến Hà Nội. Mặc cho báo chí nội thành rùm beng về sự kiện này, suốt 3 năm sinh sống ở Hà Nội, ông chỉ lặng lẽ đi luận giảng chuyện văn chương chữ nghĩa ở Đại học Văn khoa và mấy trường tư thục. Không hề soạn một vở kịch, không viết bất kỳ một bài báo nhỏ nào đả động thời cuộc, Đoàn Phú Tứ đã giữ đúng lời hứa với người em út của mình: “Vào sống ở Hà Nội, nhưng sẽ không làm điều gì phương hại đến kháng chiến”.
Trong lần tình cờ gặp Nguyễn Bắc ở nhà Hoàng Tích Chỉ khi nghe Nguyễn Bắc hỏi đùa: “Anh có định chơi kịch trong này không?” Đoàn Phú Tứ đã trả lời rất nghiêm túc: “Tôi đã trả lời trên báo Tia sáng rồi: Nhà hát lớn bụi lắm!. Đã vào đây rồi còn thiết gì nữa! Sự nghiệp văn chương thế là hết”… (Giữa thành phố bị chiếm - Nguyễn Bắc).
Đương lúc rối ren như vậy thì Đoàn Phú Tứ thành lập gia đình - một chuyện lạ lùng đối với nhiều người, vì ông là người “tri hành hợp nhất”, ít sa đà vào quan hệ tình ái. Ai cũng nghĩ ông sẽ sống độc thân suốt đời, thế nên việc ông kết hôn, nhất là ở tuổi 42 đã làm cho bạn bè vô cùng ngạc nhiên.
Vợ ông là Nguyễn Thị Khiêm (sinh năm 1931), cô nữ sinh trung học nhan sắc, người rất say mê “văn chương truyền khẩu” của ông. Cô là con thứ 6 trong một gia đình Hà Nội gốc gồm có 12 anh chị em ở phố Lãn Ông. Gia đình cô là một gia đình gia giáo, có nguồn gốc Nho học, vì vậy khi biết cô có ý định kết hôn với một người hơn cô những 21 tuổi thì bố mẹ cô đã kịch liệt phản đối.
Nhưng với cá tính mạnh mẽ, cô đã tuyên bố với bố mẹ mình rằng: “Không cho cưới sẽ tự sát”. Biết con gái là người “ương ngạnh” nói là làm, nên ông bà Nguyễn đành phải chấp nhận hôn lễ. Và vào ngày 26 tháng 6 năm Nhâm Thìn (tức ngày 16-8-1952), Đoàn Phú Tứ và Nguyễn Thị Khiêm chính thức nên vợ nên chồng.
Cặp uyên ương tài sắc chung sống với nhau rất hạnh phúc. Thế nhưng “cơm áo không đùa với khách thơ”, và Đoàn Phú Từ cũng không phải ngoại lệ. Mọi chuyện sinh hoạt vốn đã khó khăn lại càng trở nên khó khăn hơn khi Nguyễn Thị Khiêm ở cữ cặp con trai song sinh Đoàn Phú Tấn và Đoàn Phú Việt. Đó là thời điểm cuối năm l 953.
Chưa hết, ngay năm sau, ông bà lại có thêm một người con gái là Đoàn Như Ý. Đoàn Phú Tấn và Đoàn Như Ý đều công tác trong ngành Giáo dục Hà Nội. Đoàn Phú Tấn nguyên là Hiệu phó trường THCS Hoàng Hoa Thám - Hà Nội, đồng thời là Ủy viên Hội đồng trọng tài của Liên đoàn bóng đá Việt Nam. Còn Đoàn Phú Việt thì chuyên về cơ khí.
Thái Hà