Mai Ngọc Hướng và văn hóa tộc người Tày
Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có số dân khoảng 1.500.000 người, đông nhất trong nhóm các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc Tày còn có tên gọi khác là Thổ và bao gồm cả các nhóm: Ngạn, Phén, Thu Lao, Pa Dí. Phần đông người Tày cư trú các thung lũng ven sông, suối, triền núi thấp ở các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Yên Bái, Lào Cai, Quảng Ninh và một số vùng thuộc Bắc Giang v.v...
|
Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền khá phát triển với đủ loại cây trồng như lúa, ngô, khoai... và rau quả mùa nào thức đó. Bản của người Tày thường ở co cụm ở chân núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà. Bản lớn chia ra nhiều bản nhỏ. Nhà ở có cả nhà sàn, nhà đất. Trong nhà phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở trong buồng.
Người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm, áo phụ nữ dài đến bắp chân, ống tay hẹp, xẻ nách ở bên phải, cài 5 khuy. Gia đình người Tày thường quí con trai và con nuôi, đặc biệt có thể ảnh hưởng từ thời mẫu hệ ,em mẹ có vị trí rất quan trọng trong quan hệ họ hàng. và trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà có qui định rõ ràng. Vợ chồng yêu thương nhau, ít ly hôn.
Thờ cúng tổ tiên là nghi lễ tôn giáo hàng đầu của người Tày. Nơi thờ tổ tiên chiếm vị trí trung tâm, tôn nghiêm nhất trong nhà. Chiếc giường trước bàn thờ để không, khách lạ không được ngồi, nằm lên đó. Ngoài ra, có những điều kiêng kị như không đặt chân lên khúc củi đang cháy trong bếp lửa hay đặt chân lên thành bếp.
Những người đi đám ma về chưa tắm rửa sạch sẽ không được nhìn vào gia súc, gia cầm. Người mới sinh con không được đến nơi thờ tổ tiên… Nhưng đặc biệt hơn, Người Tày có một nền văn nghệ cồ truyền phong phú, đủ các thể loại, thơ, ca, múa nhạc, có cả múa rối. Tục ngữ, ca dao, đồng dao… chiếm một khối lượng đáng kể. Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát cọi, hát đám cưới, ru con.
Tín ngưỡng của người Tày
Trong quan niệm của cộng đồng Tày, vai trò các ông Then, Tào, Pụt, Mo là rất lớn. Họ là những người có khả năng liên hệ với thần linh, tiếp cận với thế giới siêu nhiên, là cầu nối giữa người trần với các đấng siêu nhiên. Chính vì vậy họ có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của cộng đồng.
Then được hát trong hầu hết các nghi lễ, hội hè với nhiều đường Then khác nhau tùy thuộc vào mục đích của lễ. Ngoài phần thuộc lễ nghi, diễn xướng then còn có phần mang tính chất vui chơi mang đậm yếu tố sân khấu. Ông Then là người thuộc nhiều đường Then và có căn Then. Người làm Then phải là người có Mình pang Then thích hợp cho việc làm thầy cúng, được cộng đồng tín nhiệm, nể trọng.
Cũng giống như Hầu đồng của người Việt, Then của người Tày mượn lời ca, tiếng đàn cùng chùm xóc nhạc dẫn đường đến với các đấng siêu nhiên để thỉnh cầu hay cảm tạ. Trong Then có nhiều đường như: Pang Khoăn, Thống Đẳm, Cấp Sắc hay Cầu Hoa… Về dạng Then cũng lắm, trong mỗi dạng lại có nhiều điệu hát khác nhau ví như cúng lễ có: Điệu khẩu tu (vào cửa); Pây mạ (đi ngựa); Điệu đông mèng đông quảng (vào rừng ve); gọi vía; chèo thuyền vượt khái… dùng trong các buổi Then chữa bệnh, hát hái hoa, nối số, tiêu hao tàn (dành cho người chết).
Then kỳ yên giải hạn… Với dạng hát vui như: Then vào nhà mới, Then chúc thơ, Then tảo mộ, Then trong đám cưới (được đệm bằng hồ hoặc đàn tính). Trong Then đại lễ, người ta thường thấy có hát múa, hát điệu bốn, múa chầu, cùng với một số trò vui như Pắt phua (Bắt chồng), Pắt slao báo (Bắt trai gái)…
Thiếu nữ Tày với hát Then |
Về nhạc dùng cho nhạc cụ của Then trong các nghi lễ hay hội bao gồm: Khúc tính pây tàng, khúc tính tàng nặm, tàng bốc, khúc tính chầu, khúc hoà tấu đàn tính và tam thập lục, khúc hoà tấu đàn tính và hồ trung, khúc tính giã bạn. Các khúc Then được tạo nên một cách có hệ thống, bài bản theo trình tự nội dung trình diễn. Không gian biểu diễn, hát Then thường được trình diễn chủ yếu trong một không gian nhỏ hẹp như trong nhà (trước bàn thờ) tuy nhiên đôi khi cũng được trình diễn trong một không gian rộng như ngoài cánh đồng, phổ biến ở Lễ hội Lồng tồng vào dịp giêng hai.
Hát then trong sinh hoạt văn hoá thường nhật Khi vui người ta mời then, khi nhà có chuyện mời Then, người có bệnh mời Then, người hiếm muộn mời Then, Then không thể thiếu trong đời sống tinh thần và tâm linh của người Tày, nó đã trở thành một trong số tín ngưỡng đặc thù của cộng đồng tộc người này.
Theo quan niệm của người Tày có ba tầng trời, mỗi Mường đều có người sinh sống, trần sao âm vậy và họ tin khi tiếng đàn tính cùng lời Then cất lên là lúc các ông Then đang bắt đầu cuộc hành trình với từng đường Then dẫn quan quân đi khắp ba tầng trời. Trong tàng Then Thống Đẳm (đưa người chết về Mường trời), hay Pang Khoăn, Cấp Sắc, Cầu Hoa… đều thể hiện rất rõ quan niệm ấy. Qua lời Then người nghe có thể biết được quan quân của Then đã đến đâu trên Mường trời. Lời then cũng chỉ rõ đặc điểm của từng bản ở Mường Trời nơi quan quân Then đang qua. Điệu then khi trầm khi bổng, đôi lúc sôi động gấp gáp kết hợp với động tác mô phỏng cùng tiếng hò reo tạo khí thế quyết tâm của quan quân Then đồng thời xuất hiện yếu tố linh thiêng.
Múa Then ở Xuân Giang, Quang Bình, Hà Giang |
Đặc biệt là trong Thống Đẳm, điệu hát cùng động tác lên ngựa hay đánh nhau với thủy quái, vượt thác… khiến người xem hồi hộp, nín thở. Khi lên ngựa Then hát rằng: Phạt cờ khửn bưởng lăng tứn mạ/ Phạt cờ khửn bưởng nả tứn loan (phất cờ về phía sau lên ngựa/ phất cờ về phía trước xuất quân) đồng thời tay Then mô phỏng theo câu hát. Tiếng kèn mạy loi, tiếng trống mạy tảng reo lên, rồi cứ thế đoàn quan quân Then đi hết từ pá nhả khâm thai đét (bãi trà may chết nắng), rồi pá nhả lẹp thai mươi (bãi rau hẹ chết sương), đến ruộng rồi đến các bản trong Mường trời.
Lời then có lúc thế thủ thỉ, sôi động rồi lại trầm buồn, ngẫm ngợi. Mỗi bản một tâm trạng, một sắc thái. Có khi căng thẳng lo lắng, có lúc hồ hởi vui tươi, tiếng đàn tiếng hát quyện với nhau hư ảo, tiếng xáu mạ rộn vang đưa Then dần vào trạng thái tự thôi miên. Toàn bộ cuộc hành trình đưa linh hồn người chết về Mường Đẳm đều gắn với đường Then Thống Đẳm, câu then khắc họa những vất vả khó khăn của quan quân trên cuộc hành trình đó.
Lời then khi đến chợ Tam Quan thể hiện khát vọng một cuộc sống ấm no, đầy đủ, câu hát rộn rã, tấp nập, hồ hởi, lạc quan, thấm vào từng cá thể đang sống nơi trần thế. Lời Then cho người sống an tâm về linh hồn người đã mất. Những linh hồn ấy đã được Then đưa về mường Tổ tiên, được mua sắm đầy đủ, ấm no, có ruộng có vườn, có trâu, có của. Còn với Pang Khoăn lời Then tạo niềm tin cho người bệnh, những người đang gặp hoạn nạn khó khăn để vượt lên số phận, cải tạo số phận, là liều thuốc giúp họ vượt qua mọi khó khăn, trở ngại và bệnh tật để sống.
Nghi thức giao tiếp của người Tày trong cúng lễ |
Then gắn với đời sống tâm linh và tín ngưỡng của người Tày, góp phần làm nên bản sắc văn hóa của cộng đồng Tày. Hát Then, đàn tính là linh hồn cho các lễ nghi, hội hè. Tiếng đàn tính vang vọng, lời Then ngọt ngào nồng ấm cùng yêu tố thiêng là món ăn tinh thần hơn tất thảy các món ăn tinh thần khác. Trước hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể có tính nguyên hợp hay một nghi lễ tôn giáo được diễn xướng bằng hình thức hát, hát kể có kèm theo nhạc và nhảy múa, cùng những biểu tượng tôn giáo mang tính tượng trưng như hát Then đã đặc biệt gây được sự quan tâm và chú ý không chỉ với cộng đồng Tày mà cả với các tộc người khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lễ hội của người Tày
Người Tày có nhiều lễ hội nhưng Lồng tồng (còn gọi là lễ xuống đồng) là lễ hội quan trọng bậc nhất vào dịp đầu năm mới, gắn liền với nền nông nghiệp trồng trọt, được tổ chức trong các bản làng để cầu cúng thần nông, vị thần cai quản ruộng đồng, vườn tược, gia súc, làng bản cho được cây cối xanh tươi, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, mọi người no ấm, bản làng yên lành. Lễ hội Lồng tồng đã có từ rất lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng người dân tộc Tày, Nùng ở các tỉnh miền núi phía Bắc: Thái Nguyên, Hà Giang, Lạng Sơn và một số tỉnh Tây Bắc.
Lễ hội của dân tộc Tày - Nùng ở Hà Giang diễn ra từ ngày 2 đến 30 tháng giêng âm lịch để mở mùa gieo trồng mới (tùy theo từng địa phương). Lễ hội Nàng Hai được bắt đầu vào tháng giêng và kéo dài đến trung tuần tháng ba.Theo tín ngưỡng dân gian dân tộc Tày thì trên cung trăng có Mẹ Trăng và mười hai nàng tiên - con gái của mẹ. Mẹ cùng các nàng hằng năm chăm lo bảo vệ mùa màng cho dân. Hội Nàng Hai được tổ chức với ý nghĩa tượng trưng các mẹ các nàng ở dưới trần gian hành trình lên trời đón Mẹ Trăng và các nàng tiên xuống thăm trần gian và giúp trần gian trong công việc làm ăn để sinh sống.
Đám cưới của người Tày
Đám cưới thường được tổ chức vào lúc chiều tối (tầm 4 -5 giờ trở đi). Cưới vào giờ này không ảnh hưởng đến công việc trong ngày của mọi người, người ở xa mấy núi cũng đến kịp. Hơn nữa, mọi người sẽ có thời gian ở chơi lâu hơn. Tiệc cưới được chia làm hai tiệc. Tiệc thứ nhất dành cho người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ hàng. Tiệc thứ hai dành cho nam nữ thanh niên, bạn bè gần xa của cô dâu chú rể. Tiệc này bắt đầu vào khoảng 7-8 giờ đêm. Ăn uống xong, mọi người vẫn ở lại. Người lớn ngồi uống nước, hàn huyên với gia chủ. Thanh niên, đám thì tổ chức hát lượn với nhau. Cuộc vui kéo dài thâu đêm, mờ sáng mới tan.
Theo phong tục, mọi chi phí tổ chức đám cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu hết: tiền mặt, lợn, gà, gạo, rượu… Điều đó có ý nghĩa là nhà trai tỏ lòng biết ơn, mong đền đáp phần nào công lao dưỡng dục của bố mẹ cô gái. Nhà gái sẽ trích ra một số tiền để sắm sửa tư trang, cho con gái làm của hồi môn: quần áo mới, vòng bạc, xà tích bạc, chăn màn thổ cẩm, chiếu hoa… và những đồ gia dụng khác. Còn rượu, thịt, gạo nếp, gạo tẻ sẽ dùng làm cỗ để mời họ hàng, làng xóm. Tất nhiên, hai bên gia đình có thể điều đình với nhau. Tùy theo gia cảnh, nhà gái có thể đòi ít hay đòi nhiều. Có trường hợp, thấy nhà trai điều kiện kinh tế không mấy dư dả, nhà gái chỉ đòi một ít gọi là, cốt để tránh tiếng là con mình theo không người ta.
Người Tày còn có một phong tục đẹp. Đó là tục “khẩu lẩu” (gạo rượu). Khi gia đình nào có đám cưới (cũng như những việc hiếu hỉ khác như: vào nhà mới, thôi nôi, mừng thọ, ma chay…), ngoài số tiền phong bao như thường lệ, nhiều người trong dòng họ, hàng xóm còn đem gạo và rượu đến. Mươi ống gạo, chục lít rượu, nhiều ít tùy theo. Số gạo rượu đó được gia chủ ghi chép vào sổ cẩn thận. Để khi nào nhà khác có việc, mình lại đi khẩu lẩu lại người ta. Đây là một hình thức giúp đỡ lẫn nhau bằng hiện vật, đỡ phần nào chi phí cho gia chủ khi nhà có công việc. Thập niên chín mươi trở về trước, khi kinh tế còn khó khăn, đặc biệt là vùng núi, vùng đồng bào dân tộc, thì việc làm đó thật có ý nghĩa. Nó thể hiện tính cộng đồng rất cao của người Tày.
Mai Ngọc Hướng người giữ hồn cho văn hóa Tày Hà Giang
Văn hóa dân tộc Tày rất phong phú và đa dạng. Nhưng cùng với thời gian, những nét đẹp văn hóa truyền thống đang dần bị mai một. Trang phục, phong tục, tập quán đẹp đang dần mất đi trước nhịp sống công nghiệp. Không thể để những đặc trưng văn hóa của người Tày bị quên lãng, Mai Ngọc Hướng đã dày công lặn lội đến các bản, làng gặp các cụ cao tuổi, các nghệ nhân sưu tầm, biên soạn, in thành sách, lưu truyền cho các thế hệ mai sau… Đặc biệt là tộc người Tày Hà Giang, quê hương anh.
Hồi làm việc ở Hà Giang, tôi với anh không thân nhau lắm nhưng nói chuyện được. Tôi thích anh vì thấy anh cũng ương ương, thích tranh luận, phản biện. Hôm nọ gặp anh ở quán lẩu dê, anh nhắc tôi: - Bác vẫn nợ em một bài viết đấy nhé. Tôi bảo: - nhớ rồi! Và hôm nay tôi trả nợ anh. Thực ra tất cả những gì tôi trình bày ở trên đều được Mai Ngọc Hướng tìm tòi, nghiên cứu, chắt lọc và ghi lại thành văn bản để truyền cho đời sau. Công việc tưởng chỉ “làm chơi” nhưng có ý nghĩa rất lớn. Đặc biệt với cộng đồng người Tày nhiều nét bản sắc đang bị mai một.
Giữ lại "hồn cốt" tộc người Tày luôn là tâm huyết của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Mai Ngọc Hướng |
Mai Ngọc Hướng bảo còn đôi năm nữa thôi là lại về với vườn cây ao cá, ngót 60 rồi anh vẫn, đi nhiều và chủ yếu đến vùng sâu, vùng xa. Mỗi chuyến đi, ngoài việc công việc chuyên môn, anh còn say mê với nghiên cứu, sưu tầm những nét đẹp văn hóa dân tộc Tày. Cái điều mà tôi vẫn đau đáu mà không làm được. Tôi tiếc đến đứt ruột đứt gan khi bà ngoại ông anh cả tôi sống 101 tuổi vẫn đọc vanh vách hàng trăm bài thơ do cụ sáng tác bằng tiếng Tày từ chuyện nghèo khó ngày xưa đến tổ đổi công, vào hợp tác… vần điệu, ý tứ hay thế mà ngày nọ qua ngày kia tôi không biết tự mình hoặc sai quân vào ghi âm lại, bây giờ nghĩ lại ân hận vô cùng. Hay ông Ta Súy một nhà nho ở bản con Poọng, xã Phương Thiện (TP Hà Giang) một người thuộc rất nhiều dân ca, ca dao Tày mà tôi không kịp khai thác.
Nhưng điều tôi không làm được Mai Ngọc Hướng đã rất thành công. Mai Ngọc Hướng tâm sự: Tôi tốt nghiệp khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, chuyên ngành Dân tộc học và về quê nhà công tác. Năm 2006, Mai Ngọc Hướng đã sưu tầm, biên soạn “Lượn bách giảo” (song ngữ Tày - Việt). “Chuyện giặc Quáng Má” (sưu tầm Song ngữ Tày - Việt); “Hát quan làng trong đám cưới của người Tày Khao” (Tày trắng) ở huyện Vị Xuyên, Hà Giang (tập 1, gồm 151 bài) và “Hát quan làng trong đám cưới người Tày” (tập 2 gồm 80 bài), ở các vùng Bắc Quang, Quang Bình, Bắc Mê (Hà Giang). “Chuyện Quẳng Lang Linh” (chuyện thổ ty Lang Linh), nói về sự tích của 3 dòng họ lớn của xã Quang Thành, Bắc Quang.
Để sưu tầm được 231 bài hát quan làng của người Tày, Mai Ngọc Hướng đã đầu tư rất nhiều thời gian, công sức. Anh đã lăn lộn trong các bản làng hàng tháng trời để sưu tầm, ghi chép lại những tư liệu quý qua lời kẽ, diễn xướng của các cụ cao niên. Những bài hát quan làng thường được các cụ truyền khẩu, không ghi chép nên người sưu tầm phải “hiệu đính”, chọn ra những câu từ chuẩn xác nhất. Thông thường, quan làng phía nhà trai (đi đón dâu) phải hát nhiều hơn.
Cây đàn Tính và hát Then là đặc trưng văn hóa của tộc người Tày |
Có những bài hát từ ngoài ngõ vào đến cổng (vượt qua vật cản đường, do bên nhà gái cố ý sắp đặt) như các tục “chăng dây chắn đường” (hát xưng danh, xin đường vào nhà gái); “thử thách từ cổng vào đến cửa nhà” (thư tu - giữ cửa); “xin trải chiếu, hát mời nước, mời trầu”; “lễ trình tổ tiên và nộp gánh”; “lễ dâng tiền và tấm vải ướt khô” (dành riêng cho mẹ cô dâu) tỏ lòng biết ơn tấm lòng trời bể, nuôi con khôn lớn, lòng hiếu thảo của con gái đối với người sinh thành ra mình; “lễ bái tổ tiên” (lạy bố mẹ vợ, họ hàng); “lễ xin đón dâu và xuống cầu thang” (so lùa lồng lang). Và nhiều bài hát, tùy thuộc vào từng tình huống khác nhau để ứng xử cho đúng phép.
Hát quan làng trong lễ đón, đưa dâu của người Tày là một nét đẹp văn hóa truyền thống. Nhưng những bài hát quan làng có sự khác nhau nhất định về thử thách, cách ứng xử giữa người Tày của các huyện, trong và ngoài tỉnh. Việc quan làng phải “gõ nhiều cửa” mới đến được nhà gái, không phải nhà gái gây khó dễ cho người đón dâu, mà là để thử xem tài ứng phó, tầm hiểu biết, ứng xử của người làm quan làng. Đó chính là nét đẹp văn hóa của người Tày. Quan làng thường là những người thông minh, ứng xử linh hoạt đặc biệt phải thuộc nhiều điển tích, ca dao… Giữ được bản sắc văn hóa Tày đã khó, làm cho mọi người hiểu được và truyền cho con cháu còn khó hơn. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Mai Ngọc Hướng tâm sự.
Hà Thiện Giang