Vụ án Lê Thảo Nguyên: Bị hại không muốn lấy tiền, giữ giấy biên nhận để tố cáo? Nhân chứng đều "vắng", không chịu đối chất?
Vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được TAND huyện Tĩnh Gia xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Lê Thảo Nguyên ngày 27/12/2019 được luật sư Đặng Văn Cường đánh giá là vụ án có nhiều tình tiết lạ lùng, hi hữu. Nói như vậy bởi lẽ bị hại trong vụ án nhất quyết “năm lần bảy lượt” từ chối nhận tiền, “cố thủ” giữ giấy biên nhận để đi tố cáo!
Theo ông Lê Trường Ngọc – bố bị cáo Lê Thảo Nguyên, con trai ông và gia đình bị hại trước đây có mối quan hệ rất thân thiết, là người cùng quê, tình thầy trò cũ và cũng có làm ăn chung một thời gian. Sự việc bắt đầu từ năm 2014, khi Lê Thảo Nguyên mở nhà hàng hải sản Tĩnh Gia tại Nguyễn Phong Sắc, Cầu Giấy, Hà Nội. Vì tình cảm thầy trò, Nguyên đã đồng ý để gia đình thầy giáo cũ – ông Hà Trọng Tân và vợ Mai Thị Tuyết góp vốn làm ăn chung và nhận con trai của thầy là Hà Phương vào làm việc tại nhà hàng.
Khi nhận số tiền 300.000.000 đồng của gia đình thầy góp vốn làm ăn, vì là người ngay thẳng nên Nguyên đã chủ động viết giấy nhận tiền cho thầy giáo dù không được yêu cầu. Nhưng Nguyên không ngờ rằng, đây là huyệt tử mà sau này chính Nguyên sa chân vào. Khi viết giấy nhận tiền, vì đồng ý cho Hà Phương vào làm việc tại quán nên Nguyên viết nội dung “lo công việc cho em Hà Phương”.
Ngoài ra, giấy nhận tiền không đề cập bất cứ điều gì về thỏa thuận xin việc gì, ở đâu, thời gian ra sao, trách nhiệm nghĩa vụ của mỗi bên. Qúa trình làm ăn chung, Hà Phương làm việc tại nhà hàng một thời gian thì tự ý bỏ việc, nên ông Tân, bà Tuyết đòi Lê Thảo Nguyên 300 triệu đồng. Lúc đầu, anh Nguyên đề nghị đã đưa 300 triệu đồng góp vốn vào kinh doanh thì phải tính lỗ, lãi, nhưng ông Tân, bà Tuyết không chấp nhận, yêu cầu thanh toán đủ 300 triệu.
Bị cáo Lê Thảo Nguyên trong phiên tòa.
Trước sức ép thường xuyên của ông Tân, bà Tuyết, anh Nguyên đã yêu cầu đưa bản chính của “giấy nhận tiền” thì anh sẽ trả đủ 300 triệu. Việc này đã thực hiện xong, ông Tân đưa bản cho anh Nguyên giấy nhận tiền và anh Nguyên trả 300 triệu lại cho ông Tân, không còn nợ nần đôi bên.
Tuy nhiên lạ lùng là sau đó ông Tân, bà Tuyết nhiều lần trực tiếp hoặc nhờ người đến tại nhà riêng, nhà hàng, nơi anh Nguyên làm việc tiếp tục đòi 300 triệu đồng. Và đến ngày 25/6/2018, bà Mai Thị Tuyết làm đơn tố cáo anh Lê Thảo Nguyên lừa đảo chiếm đoạt 300 triệu đồng của gia đình bà kèm theo bản gốc tờ giấy nhận tiền và mời 2 người làm chứng việc nhận tiền mà chính anh Nguyên rất bất ngờ vì rõ ràng anh đã nhận một tờ giấy nhận tiền từ ông Tân năm 2016, đâu là thật đâu là giả và 02 người làm chứng là từ đâu ra khi giao tiền ngay tại nhà hàng anh ở Hà Nội chỉ có anh và vợ chồng thầy giáo cũ? Theo ông Ngọc, gia đình người thầy giáo cũ đã dựng “một kịch bản hoàn hảo” để vu khống, đưa con trai ông vào vòng lao lý.
Theo phía bị hại thì Nguyên tự giới thiệu về nghề nghiệp, khả năng, mối quan hệ của bản thân và hứa sẽ xin việc được cho Hà Phương với chi phí 300.000.000 đồng. Bà Tuyết – mẹ Hà Phương đã vay tiền Ngân hàng giao cho Nguyên 300.000.000 đồng tại nhà của bà tại Tĩnh Gia, Thanh Hóa, có sự chứng kiến của hai người hàng xóm. Nhưng sau đó Nguyên không xin được việc và không chịu trả lại tiền.
Bản án hình sự sơ thẩm của TAND huyện Tĩnh Gia đã tuyên phạt Nguyên 9 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sắp tới vụ án sẽ được TAND tỉnh Thanh Hóa đưa ra xét xử phúc thẩm do có đơn kháng cáo kêu oan của bị cáo.
Liên quan đến vụ án này, Luật sư Đặng Văn Cường -Văn phòng luật sư Chính Pháp đã đưa ra nhiều ý kiến rất đáng quan tâm. Thời báo Doanh nhân xin cung cấp những góc nhìn này từ phía luật sư:
Thứ nhất, vụ việc này cơ quan tố tụng đã bỏ qua nguyên tắc suy đoán vô tội, trọng cung hơn trọng chứng, và khi trọng cung thì chính lời khai của những nhân chứng, bị hại trong vụ án đều mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn với lời khai của chính mình và lạ lùng là 16 người làm chứng trong vụ án đều vắng mặt, không đối chất!
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó. Cơ quan tố tụng nhận định thủ đoạn của Lê Thảo Nguyên là đưa ra những thông tin không đúng để tạo lòng tin với gia đình bà Tuyết về vị trí việc làm, công tác để lừa dối gia đình bà Tuyết và còn là học trò cũ của ông Tân nên bà Tuyết tin tưởng, đồng ý đưa tiền xin việc cho con trai và Nguyên đã chiếm đoạt số tiền 300 triệu đồng đó.
Tuy nhiên thực tế cơ quan tố tụng không chứng minh được ý thức, động cơ, mục đích chiếm đoạt tài sản của Nguyên. Trong vụ án này, chứng cứ buộc tội Nguyên có thủ đoạn gian dối chủ yếu là lời khai của gia đình bị hại và nhân chứng. Tuy nhiên lời khai của những người này về các tình tiết như Nguyên tự giới thiệu bản thân, hoàn cảnh không gian, thời gian, diễn biến hành vi; đặc điểm, nguồn gốc của số tiền, việc nhờ người làm chứng,..đều không thống nhất nhau, mâu thuẫn với chính mình giữa các lần khai báo và mâu thuẫn với nhau. Càng về sau những lời khai này được thay đổi, bổ sung thêm các tình tiết theo chiều hướng bất lợi cho bị cáo.
Những lời khai này cũng hoàn toàn không phù hợp với tâm lý của những người bình thường khi tham gia một giao dịch. Bên cạnh đó những lời khai về việc Hà Phương có thời gian làm việc tại nhà hàng Tĩnh Gia bị thay đổi liên tục một cách khó hiểu?!! Đặc biệt là tất cả những người làm chứng trong vụ án đều từ chối đối chất, từ chối tham gia phiên tòa. Ngay tại phiên tòa thì chính bị hại cũng từ chối trả lời hoặc trả lời theo hướng không nhớ, không biết?! Với chỉ những lời khai mâu thuẫn, không khách quan trong hồ sơ vụ án thì không đủ cơ sở tin cậy, không đủ chứng minh bị cáo Nguyên thực hiện thủ đoạn gian dối trước khi nhận số tiền 300.000.000 đồng.
Nội dung tờ giấy nhận tiền đề ngày 15/2/2014 chỉ có nội dung “lo công việc cho em Hà Phương”, tờ giấy này chỉ chứng minh đây là giao dịch được xác lập ngay tình, không thể hiện có thủ đoạn, nội dung giả dối nào. Các nội dung giấy xác nhận này cũng không thể hiện những nội dung như phía gia đình bị hại khai báo, không có điều kiện, cam kết nào về việc xin cho Hà Phương công việc cụ thể gì, thời gian bao lâu,...không thể chứng minh có sự việc Nguyên hứa xin cho Hà Phương vào làm việc tại trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ thông tin truyền thông và tự giới thiệu mình làm ở Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Thông tin Truyền Thông như gia đình ông Tân, bà Tuyết khai?
Và điều đặc biệt là trong suốt thời gian dài gia đình bị hại liên tục yêu cầu Nguyên trả tiền nhưng lại không chịu đưa ra giấy biên nhận này, quyết tâm giữ lại và chỉ cung cấp khi làm đơn tố cáo ra công an. Đây là điều lạ lùng mà tôi sẽ đề cập ở nội dung thứ hai dưới đây.
Những chi tiết lạ lùng trong vụ án....Cho rằng mình bị hại nhưng lại không mong muốn lấy lại tiền????
Bị cáo Lê Thảo Nguyên đã rất nhiều lần đề nghị trả lại tiền nếu bị hại xuất trình giấy biên nhận tiền gốc nhưng bị hại nhất quyết từ chối việc này, và đến ngày 25/6/2018 thì bà Tuyết lại làm đơn tố cáo Nguyên kèm giấy biên nhận này
Thực tế bị cáo không có ý thức, mục đích chiếm đoạt số tiền 300.000.000 đồng. Theo Nguyên, năm 2016 bị cáo đã từng trả cho ông Tân 300 triệu đồng khi ông Tân cần tiền lo đám cưới Hà Phương. Dù số tiền này là góp vốn và nguyên tắc khi rút vốn thì phải tính lỗ, lãi cụ thể song ông Tân, bà Tuyết nhất quyết lấy đủ số tiền thì Nguyên cũng đã trả. Lúc này ông Tân có đưa 01 giấy biên nhận gốc và nói là giấy lúc trước Nguyên viết.
Nguyên yên tâm là đã trả đủ số tiền này nên thời gian sau bà Tuyết, ông Tân tiếp tục đòi tiền thì Nguyên tự tin cho rằng mình không còn nợ nần, không có nghĩa vụ trả tiền. Nhưng bà Tuyết cho rằng còn có giấy nhận nợ. Nguyên khẳng định nếu ông bà đưa được giấy biên nhận gốc ra thì sẽ trả. Và khi bà Tuyết làm phiền gia đình và cá nhân Nguyên nhiều lần thì Nguyên vẫn khẳng định trả số tiền đó khi nhận được giấy biên nhận gốc.
Thế nhưng gia đình bị hại nhất quyết không đưa giấy biên nhận để lấy tiền? Đây là điều rất vô lý! Tâm lý người bình thường khi không xin được việc sẽ muốn lấy lại ngay số tiền đã giao, chứ không muốn giữ giấy biên nhận lại làm gì cả, trừ khi có động cơ, mục đích nào khác. Nội dung này được chính ông Hà Trọng Tân khai tại BL 192, 193: “Sau nhiều lần khác, Nguyên lần thì cho hai em ruột, lần thì hai em và bố, lần thì cả bố Nguyên và hai em hẹn và đến nhà tôi để trả tiền và lấy lại giấy nhận tiền mà Nguyên đã viết. Tuy nhiên lần ấy gia đình và Nguyên không trả đủ tiền, tôi bảo chỉ viết giấy nhận tiền số tiền đã trả, khi nào trả đủ thì tôi sẽ trả lại giấy nhận tiền mà Nguyên đã viết. Do không đạt được mục đích lấy lại được bản gốc giấy nhận tiền mà Nguyên đã viết nên Nguyên đã không trả cho gia đình tôi bất kỳ số tiền nào”.
Như vậy tại sao khi anh Nguyên yêu cầu xuất trình bản gốc giấy giao nhận tiền thì sẽ trả tiền nhưng phía gia đình ông Tân, bà Tuyết không chấp nhận. Và sau khi phía bà Tuyết thực hiện hành vi tố giác anh Nguyên, anh Nguyên tiếp tục yêu cầu xuất trình bản gốc thì trả tiền nhưng vẫn không được chấp nhận? Giao dịch được thể hiện trên Giấy nhận tiền đó không trái pháp luật.
Rõ ràng, yêu cầu xuất trình bản gốc để trả tiền là một yêu cầu chính đáng, đúng pháp luật. Giao dịch giữa hai bên chỉ thể hiện bằng văn bản trong tờ Giấy nhận tiền đó, ngoài ra không thể hiện ở văn bản nào khác. Vậy phía gia đình ông Tân, bà Tuyết có nguyện vọng gì? Theo như đơn thư của anh Nguyên, nếu phía gia đình ông Tân, bà Tuyết muốn lấy tiền thì chỉ cần đáp ứng yêu cầu xuất trình bản chính giấy nhận tiền, anh Nguyên sẽ trả. Thông thường, trong những vụ việc như thế này, phía người đi tố cáo sẽ thông báo cho người bị tố rằng: Nếu không hoàn trả tiền thì sẽ tố cáo đến các cơ quan bảo vệ pháp luật vì mục đích của họ đều chỉ là thu hồi lại số tiền đã giao mà thôi.
Cũng theo theo các nội dung đơn thư của anh Nguyên, khi vụ việc đang được thụ lý ở giai đoạn giải quyết tin tố giác tội phạm, anh Nguyên đã gặp điều tra viên có ý kiến rằng anh sẵn sàng trả gấp nhiều lần số tiền phía gia đình ông Tân bà Tuyết đòi nếu như đưa ra được giấy nhận tiền bản gốc nhưng vẫn không được đáp ứng.
Sự việc lẽ ra có thể giải quyết ổn thỏa bằng các thỏa thuận dân sự đúng với bản chất ban đầu giữa các bên nhưng hiện nay, việc dẫn tới phải xem xét trách nhiệm hình sự, tố cáo lẫn nhau là một điều vô cùng đáng tiếc. Và thực tế, hồ sơ vụ án thể hiện các bên đã gặp nhau một số lần để thỏa thuận giải quyết việc hoàn trả tiền nhưng chưa thống nhất được cách thức chứ Nguyên hoàn toàn không có ý thức chiếm đoạt tiền cả trước và sau khi nhận tiền.
Ngoài ra có một chi tiết bất bình thường, đó là ông Tân, người trực tiếp có quan hệ thầy trò lâu năm với bị cáo lại khai không biết gì về việc bà Tuyết đưa tiền cho Nguyên nhờ xin việc?! Đáng lẽ với tâm lý thông thường thì bà Tuyết khi biết Nguyên là học trò của chồng, phải chính là người bàn bạc, hỏi ý kiến của chồng để xác định lại những nội dung mà Nguyên nói có đúng hay không.
Và khi bà Tuyết quyết định chi tiêu khoản tiền lớn 300 triệu, thậm chí phải thế chấp quyền sử dụng đất để vay tiền ngân hàng mà không thông qua với ông Tân, đến hơn một năm sau ông Tân mới biết là rất phi lý. Trong khi trước đó bà Tuyết khai không biết Nguyên và vì Nguyên là học trò cũ của chồng nên mới tin và giao tiền? Và cũng vô lý hơn khi việc đưa tiền nhờ xin việc con con trai mà bà Tuyết lại gọi người ngoài đến làm chứng, trong khi chồng lại không hay biết?
Đáng nhẽ những việc tế nhị như vậy thì không ai muốn người ngoài biết, chưa nói đến việc làm chứng. Và lại càng khó hiểu hơn khi mời người đến làm chứng nhưng không ký làm chứng vào giấy biên nhận. Việc làm chứng như vậy còn có ý nghĩa gì? Diễn biến tâm lý của bị hại như vậy thực sự khó có thể lý giải?? Sau này hai người làm chứng cũng khai nội dung bất nhất nhau, và không chịu ra Tòa làm chứng, không đối chất với Nguyên.
Có phải có “Một kịch bản hoàn hảo” nhằm che đậy hành vi làm giả giấy tờ???
Và một câu hỏi lớn mà nhiều người cũng thắc mắc chính là hồ sơ xin việc mà bà Tuyết khai đưa cho Lê Thảo Nguyên xin việc liệu có phải là bộ hồ sơ thật? Theo bộ hồ sơ mà trước đây gia đình bị hại đã đưa cho Nguyên khi Hà Phương ra Hà Nội làm tại nhà hàng của Nguyên thể hiện Bảng kết quả học tập tại trường ĐH kinh tế Quốc Dân ngày 15/8/2011, Hệ đào tạo đại học chính quy, ngành học kế toán; Bằng tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân ngày 16/8/2011 của trường Đại học kinh tế quốc dân cấp cho Hà Phương, số bằng A006843.
Tuy nhiên theo nội dung xác minh có trong hồ sơ thì trường Đại học kinh tế quốc dân xác nhận không có tên học sinh Hà Phương, số bằng A006843, bảng điểm thông tin của sinh viên không có trên hệ thống của trường. Thế nhưng điều kỳ lạ là ông Hà Trọng Tân đã dùng chức danh, quyền hạn của mình là hiệu trưởng trường THPT Tĩnh Gia I để ký HĐLĐ với Hà Phương, Hợp đồng lao động thể hiện Hà Phương với trình độ đại học, chuyên ngành kế toán, phụ trách công tác kế toán của nhà trường và một số công việc hành chính khác???! Ngoài ra trong Bằng cao đẳng Vinatex mà gia đình bị hại cung cấp có nội dung sửa chữa trình độ từ TB Khá thành Khá. Vậy có hay không việc gia đình bị hại làm giả giấy tờ, tài liệu để xin việc cho con? Ai mới là người có thủ đoạn, mục đích gian dối? Chính tại phiên tòa sơ thẩm thì bà Tuyết, Hà Phương đều không trả lời, từ chối trả lời những nội dung liên quan đến bằng cấp và bộ hồ sơ xin việc này. Riêng ông Tân thì vắng mặt tại phiên tòa.
Theo ông Ngọc – bố đẻ của Lê Thảo Nguyên thì sự việc diễn biến hết sức khó hiểu đó là sau khi Nguyên trả 300.000.000 đồng cho ông Tân lo đám cưới cho Hà Phương thì ngày 25/5/2018 báo Giáo dục có bài phản ánh việc: “ông Hà Trọng Tân chủ mưu làm hồ sơ giả cho con là Hà Phương để ký hợp đồng làm việc kế toán tại trường PTTH Tĩnh Gia 1”.
Vài ngày sau bà Tuyết liên tục đòi tiền nhưng không xuất trình giấy biên nhận tiền và đến ngày 25/6/2018 thì bà Tuyết làm đơn tố cáo Nguyên? Ông Ngọc cho rằng chính bộ hồ sơ giấy tờ giả của Hà Phương có liên quan mật thiết đến vụ án Lừa đảo này và điều này có thể là lý giải hợp lý nhất cho lý do vì sao gia đình bị hại lại có đến “2 giấy biên nhận gốc” và nhất quyết không nhận tiền mà giữ giấy biên nhận để làm đơn tố cáo? Phải chăng gia đình bị hại lo sợ Nguyên còn giữ bộ hồ sơ xin việc đứng tên Hà Phương có dấu hiệu giả mạo nên đã dựng lên kịch bản vụ án lừa đảo?
Ngoài ra, trong vụ án này, cơ quan tố tụng đã có sai phạm về thủ tục tố tụng trong quá trình xác minh đơn tố giác tội phạm, khám xét, thu giữ, niêm phong, bảo quản tang vật mà anh Nguyên đã có nhiều đơn thư tố cáo nhưng chưa được xem xét, giải quyết triệt để. Tôi cho rằng vụ án này có rất nhiều vấn đề cần xem xét, nhằm đảm bảo khách quan, tránh oan sai. Luật sư Cường cho biết thêm.
Với tinh thần tôn trọng sự thật, niềm tin vào công lý, báo Thời Báo Doanh Nhân sẽ tiếp tục phản ánh tới bạn đọc các diễn biến mới của vụ án.
PV