Kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2020)
Bí mật sức lôi cuốn của Bác Hồ
Ngay từ những 50 thế kỷ trước đã lan truyền những huyền thoại về đồng chí Hồ Chí Minh như vị Chủ tịch nước thực sự của nhân dân.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ông không chỉ một lần đến đất nước Liên Xô chúng ta, kể cả thăm chính thức và không chính thức, khi đi nghỉ dưỡng. Tại những xí nghiệp ở Matxcova và ngoại ô Matxcova, tại nhiều nước cộng hoà liên bang ông đã làm quen học hỏi kinh nghiệm dựng xây khôi phục đất nước sau thời chiến. Ông đã gặp gỡ trao đổi chuyện trò vời nhiều chính khách và thường dân của đất nước chúng ta. Ông đã đến thăm và uống trà tự nhiên, thân mật tại nhà của các công nhân, nông dân, chuyện trò về công việc ngày thường.
Tất cả những ai đã từng gặp ông đều kể rằng ông đã chinh phục họ bởi tính khiêm nhường, thái độ nhã nhặn, sự quan tâm và tôn trọng đối với những người xung quanh, bất kể họ, như người ta thường nói, “cấp hay bậc”. Trong ông không có khái niệm “lãnh tụ”. Ông ứng xử, như là ngang bằng phải lứa. Mọi người gần gũi ông, tin cậy tâm tình với ông về những mối quan tâm và hy vọng. Họ đánh giá cao ở ông tính lạc quan, sự thông thái và cảm nhận tuyệt vời của tính hài hước...
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi quốc tế |
Năm 1960 tôi nhập học Trường Đại học quan hệ quốc tế Matxcơva. Như một nhà Việt Nam học tương lai, một chuyên gia về các nước phương Đông, tôi rất nóng lòng muốn biết nhiều hơn về vị Chủ tịch đầu tiên của Việt Nam. Nhưng những sự kiện về cuộc đời huyền thoại của ông thời gian đó được biết đến rất ít. Đến cách mạng thông tin toàn cầu thì còn rất xa vời. Những thông tin đến từ Hà Nội thật sự hiếm hoi.
Trong “Phòng Phương Đông” của Thư viện Lịch sử ngay giữa trung tâm Matxcova, trong những trang báo được khâu thành tệp, tôi chỉ tìm được tiểu sử chính thức của ông đăng đúng trên một trang giấy. Tiểu sử viết vô cùng vắn tắt: Sinh ra, đi học, xuất dương, gia nhập, là thành viên tham gia, bị bắt, trở về, người đã từng đứng đầu... Lãnh đạo, là người ... - đọc tất cả những lời những chữ khô khan như điện tín thật khó để nhận ra tầm cỡ lịch sử của nhân cách một con người đã đưa đất nước ra khỏi cảnh hoang sơ chính trị, cứu nhân dân mình khỏi ách nô lệ đời đời kiếp kiếp của những kẻ xâm lược ngoại bang. Bức ảnh chân dung của ông đăng trên các báo còn nói được nhiều điều hơn. Đôi mắt sáng, lanh lợi. Ánh nhìn cương nghị. Vầng trán cao rộng mở. Ria gọn gàng và bộ râu. Khuôn mặt xương xương, nhiệt huyết đầy trí tuệ của một con người từng trải trong cuộc sống.
Thời đó tại nơi hút thuốc dành cho “những người yêu thích môn lịch sử” bất kì một sinh viên nào cũng có thể trao đổi thoải mái với các giảng viên Trường Đại học Tổng hợp quốc gia Matxcơva (MGU), với các giáo sư của Trường Đại học phương Đông thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô gần bên cạnh trường, ở đây sinh viên có thể hỏi bất kỳ điều gì. Có một sinh viên trong số họ, biết được tôi đang quan tâm đến Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, đã gợi ý: Bạn hãy đến kho lưu trữ tìm Tạp chí “Tia lửa” số cuối cùng của năm 1923 và đọc bài phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc của nhà thơ Oxip Mandelstam được thực hiện trong chuyến đi từ Pari về Matxcova, lúc đó anh sẽ hiểu, Hồ Chí Minh là ai. Bài phỏng vấn khiến tôi vô cùng xúc động. Trước mắt tôi hiện lên rõ ràng một con người có một nghị lực tinh thần to lớn, niềm tin say đắm vào công cuộc giải phóng nhân dân mình khỏi ách ngoại bang, nghèo nàn và ngu dốt. Rất dễ hiểu là tại sao chính Hồ Chí Minh là người đứng đầu lãnh đạo Cách mạng tháng Tám, trở thành Chủ tịch nước Việt Nam độc lập trong thời kỳ vô cùng phức tạp khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Sinh viên Việt Nam, những người như ta hay nói, từ trận tuyến đến thẳng các trường đại học Liên Xô của chúng ta học tập, đã kể rất nhiều về Hồ Chí Minh. Họ nói về Chủ tịch của một quốc gia mà như nói về một người rất gần gũi, ruột thịt, với sự tôn kính chân thành và tình yêu không hề giả tạo. Những điều mà những người trẻ tuổi đó kể, - họ là những người cùng lứa tuổi với tôi, - cách đây không lâu là những sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, đã gieo trong tôi ước mơ một ngày nào đó được tận mắt nhìn thấy Hồ Chí Minh, con người của huyền thoại.
Tuy nhiên, quan hệ Xô - Việt đang ngày càng được tăng cường. Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Chính phủ Liên Xô cử sang Việt Nam mấy trăm chuyên gia trong các lĩnh vực nghề nghiệp cần thiết nhất đối với Việt Nam lúc đó. Từ nhà ga Iaroxlavxk theo tuyến tàu hoả xuyên Liên Xô và Trung Quốc các chuyên gia địa chất, thợ mỏ, chuyên gia về năng lượng, về chế tạo máy công cụ, công nhân cảng tàu, bác sỹ, giảng viên đại học… đã sang Việt Nam công tác.
Khả năng hiếm có được sang Việt Nam học tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội rộng mở đối với chúng tôi - những sinh viên ngành Việt Nam học. Vào thượng tuần tháng Chín năm 1963 sau mười hai ngày đêm đi trên tàu hoả, chúng tôi xuống sân ga Hà Nội. Lên xe buýt kêu kèn kẹt vì quá cũ. Chúng tôi đi ngang qua công viên “Thống Nhất” vừa mới xây dựng xong bởi bàn tay của tuổi trẻ Hà Nội. Phía bên phải còn có một khu nhà mới “Kim Liên” - dành cho các chuyên gia nước ngoài. Cuối cùng thì chúng tôi cũng có mặt tại Ký túc xá còn nặng mùi sơn của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Bắt đầu những ngày tháng học tập của sinh viên.
Ngay ngày chủ nhật đầu tiên tôi đã lượn vào trung tâm thành phố. Thời tiết nóng nực. Cạnh toà soạn báo “Nhân Dân” tôi nhìn thấy quán cà phê tự tạo – chỉ có mấy chiếc bàn đặt ngay trên lề phố. Tôi gọi một cốc cà phê đá. Cạnh bàn tôi ngồi là một nhóm nam giới khoảng năm mươi tuổi. Họ uống trà đặc, nhấp từng hớp nhỏ kéo dài sự thưởng thức. Đọc báo số mới ra hôm đó. Bình luận về những điều vừa đọc, họ nhắc đi nhắc lại: Bác Hồ nói, Bác Hồ cho rằng, Bác Hồ bày tỏ sự đồng tình... Tôi xin lỗi và hỏi Bác Hồ là ai vậy? Họ tròn mắt nhìn tôi như là kẻ lạc từ cung trăng xuống. Sau đó họ cười sảng khoái, một ông trong số họ giải thích cho tôi “Bác Hồ, con trai ơi, - là Chủ tịch nước của chúng tôi. Đồng chí Hồ Chí Minh”, - để cho tôi hiểu rõ hơn, rất lịch sự ông ấy còn nói thêm bằng tiếng Pháp. Buổi “thâm nhập vào quần chúng” đầu tiên của tôi kết thúc như vậy. Trở về tới Ký túc xá, tôi luôn luôn đem những điều vừa nghe được thử gán vào những từ ngữ đặc thù thời Xô viết xem sao, và cứ thế nhẩm đi nhẩm lại như nói thầm: Bác Khrutsov… ôi, nghe thật không ổn. Có cái gì đó bỗ bã và giả tạo. Tôi cứ suy ngẫm, tại sao người Việt Nam gọi Chủ tịch nước của mình là Bác? Thật là một câu đố.
Một thời gian sau đó Sứ quán gọi điện đến Ký túc xá cho chúng tôi. Yêu cầu đến gấp. Cán bộ ngoại giao phụ trách chúng tôi, thông báo: “Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà tổ chức gặp gỡ con em cán bộ Ngoại giao đoàn. Chuẩn bị tinh thần đi tháp tùng các em… Cứ hành động tùy theo hoàn cảnh. Nếu cần thiết, giúp đỡ dịch cho các em”.
Buổi sáng đến giờ đã hẹn, tại cổng Đại sứ quán chúng tôi đón đoàn các em trong trang phục ngày lễ, và dẫn các em đến Phủ Chủ tịch. Bước vào vườn cây trong khuôn viên Phủ Chủ tịch, các em chạy nhảy trên bãi cỏ xanh chan hoà ánh nắng. Ở đó Hồ Chí Minh đã đợi sẵn các em. Còn chúng tôi thì ngồi trên những chiếc ghế gập bằng gỗ đã sắp sẵn dưới bóng những cây đa to và ngắm nhìn mọi việc xung quanh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với bạn bè quốc tế |
Tôi không rời mắt khỏi Hồ Chí Minh. Lúc đó Bác đã ngoài bảy mươi, nhưng trông Bác rất sảng khoái, mạnh mẽ, thần thái vui tươi. Và cái chính khiến mọi người lúc đó ngạc nhiên là Bác ăn mặc rất bình dị “như ở nhà”: Có lẽ bộ com lê sáng màu, không cà vạt làm tăng thêm ấn tượng giản dị đó. Ở bên Liên Xô chúng ta cách ăn mặc như vậy cũng thường thấy vào mùa hè khi đi nghỉ dưỡng ở Xôchi hay Yanta.
Không cần tới phiên dịch, đồng chí Hồ Chí Minh ngay lập tức hoà mình với các cháu. Hỏi han các cháu về điều gì đó, chia quà cho các cháu mấy cái kẹo cứng. Ngay từ những phút giây đầu tiên trò chuyện bọn trẻ đã cảm thấy Hồ Chí Minh là
“Bác của mình”. Tha hồ cười nói thoải mái. Bọn trẻ đồng thanh đáp lại những câu hỏi, những lời căn dặn, những câu pha trò đùa vui của Bác. Rồi chúng tranh nhau kể về cái gì đó. Ông lắng nghe từng đứa một. Như quên hết mọi thứ trên đời, bọn trẻ hát hò, nắm tay nhau kết thành vòng tròn nhảy múa. Tóm lại, bọn trẻ ứng xử như đang giao lưu không phải với Chủ tịch nước, mà là với người họ hàng thân thích, người bác ruột thịt. Dừng lại đã! - trong tâm thức tôi lóe sáng lên. Bác ruột ... Bác Hồ. Như vậy, câu đố tự mở ra cho tôi lời giải đáp: tại sao người Việt Nam lại gọi Hồ Chí Minh là Bác.
Trở về Ký túc xá, trong tâm trí tôi cứ lặp đi lặp lại như đang quay những thước phim từng chi tiết của buổi gặp gỡ đầu tiên của tôi với Hồ Chí Minh. Tôi đã tìm ra kết luận: bí mật sức lôi cuốn của Bác Hồ - nằm ở tính giản dị, một sự giản dị tự nhiên, sự giản dị trong mọi việc: trong phong cách, lời ăn tiếng nói, trong cách ăn mặc và cả trong việc mọi người gọi ông là Bác Hồ. Sau này tôi còn để ý rằng sự giản dị là đặc trưng những bài phát biểu của Hồ Chí Minh trên báo chí. Tại Khoa ngữ văn Trường Đại học tổng hợp, nơi sáng sáng chúng tôi đến đó bằng xe đạp, các giảng viên thường xuyên đưa những bài báo, những diễn văn mới nhất của Hồ Chí Minh giới thiệu cho chúng tôi. Ông nói và viết về những vấn đề cấp thiết nhất: cần phải làm gì để thống nhất đất nước, tổ chức thế nào cuộc đấu tranh chống nghèo khổ, tại sao dân chúng cần phải biết chữ, giữ gìn vệ sinh, tập thể thao. Ngay cả về những vấn đề phức tạp nhất ông cũng trình bày đơn giản và rõ ràng. Ý nghĩa biết bao dẫu chỉ là câu nói sau đây của Hồ Chí Minh trong buổi trò chuyện với Đại sứ Liên Xô M.V.Zimianhin: Nhờ có sự nỗ lực to lớn mà nhân dân chúng tôi đã đi từ cảnh đói nghèo sang nghèo khổ. Không thể có câu nói nào diễn đạt chính xác hơn và hình tượng hơn về tình hình kinh tế - xã hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà những năm cuối thập kỷ 1950!
Trong những năm của thập kỷ 1970, 1980, với tư cách là phiên dịch tôi thường phải làm việc với Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn. Có lần tôi hỏi ông: đồng chí Hồ Chí Minh, một nhà chính trị thông thái giàu kinh nghiệm, một trí thức có trình độ học vấn rộng, biết mấy thứ tiếng nước ngoài, một nhà báo xuất sắc, một nhà thơ tuyệt diệu, nắm vững vốn từ ngữ tiếng Việt đến mức hoàn thiện, mà tại sao lại nói và viết giản dị như vậy. Trong câu trả lời tôi nhận được sự giải thích như sau. Trong những năm 1930, 1940, trong điều kiện hoạt động bí mật chúng tôi không có bất kỳ một thứ vũ khí nào khác ngoài lời nói. Để làm sao từng lời đến được tận trái tim và ý thức mỗi người, cần phải nói và viết những điều cơ bản nhất, chân thật đến tận cùng, giản đơn và dễ hiểu. Vì vậy mà Hồ Chí Minh đặc biệt đòi hỏi bản thân trong việc dùng từ. Và Người đã dạy chúng tôi điều đó.
Tiếp tục chủ đề, đồng chí Lê Duẩn nhớ lại, vào năm 1941, khi ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh viết truyền đơn và đưa từng tờ truyền đơn cho những người bảo vệ là những thanh niên nông dân địa phương, để họ đọc. Nói thế nào nhỉ, lúc đó trường làng một lớp học cho hai người và lớp học đây là lớp đầu tiên. Sau đó một thời gian Hồ Chí Minh nhất định sẽ hỏi lại: họ hiểu gì và hiểu như thế nào? Sau khi trao đổi với họ Hồ Chí Minh viết lại truyền đơn đã viết trước đó, cứ như vậy cho đến lúc mọi người hoàn toàn hiểu đúng nội dung của truyền đơn. Vấn đề là ở chỗ, mãi đến năm 1945 tính theo đầu người đa số người dân đất nước chúng tôi không biết đọc, biết viết. Đó là chính sách của thực dân. Dân chúng ngu dốt thì dễ bề cai trị. Để có thể xuyên thủng bức tường này cần phải đưa quyền phát ngôn nói lên sự thật đến với mỗi người. Rồi sau đó, khi đã đi vào nhận thức của mọi người thì những lời nói của Hồ Chí Minh mãi mãi khắc sâu trong tâm trí nhân dân. Lời Bác nói, lời Bác viết được truyền miệng khắp nơi từ làng này đến làng khác. Những người thường dân mà phần lớn là nông dân nghèo khổ, biết rằng, có một người cũng suy nghĩ như họ, cũng ước mơ những điều họ mơ ước. Người đó cho biết trước là cuộc chiến đấu sẽ còn lâu dài và gian khổ. Chỉ có toàn dân đoàn kết, muôn người như một thì mới có thể thắng được quân thù hùng mạnh.
Thêm một chi tiết tôi nhớ lại được trong buổi gặp gỡ đầu tiên của tôi với Hồ Chí Minh. Sau khi chuyện trò với các cháu, Hồ Chí Minh mời tất cả mọi người có mặt xem một chương trình ca nhạc, tổ chức ngay giữa vườn cây trong Phủ Chủ tịch gần hàng trụ hình bầu dục vấn vít hoa leo. Chính trong ngày nắng đẹp đó trên bãi cỏ trong khuôn viên Phủ Chủ tịch lần đầu tiên tôi được nghe bài hát về tinh thần đoàn kết mà về sau trở thành phổ cập khắp nơi. Chủ tịch Hồ Chí Minh hát, người lớn đứng cạnh ông hát. Trẻ em hát. Tất cả mọi người hát. Hùng mạnh và sôi nổi, mọi người cùng hát vang: “Kết đoàn, chúng ta là sức mạnh”…
Anatoli Voronhin*
Hoàng Minh (dịch)
(Còn tiếp)