Đồng chí Hồ Chí Minh
Có những cuộc gặp gỡ làm người ta ghi nhớ suốt đời, ăn sâu vào trong tiềm thức và trong trái tim những dấu ấn không bao giờ lặp lại. Lần gặp gỡ của tôi với đồng chí Hồ Chí Minh cũng như vậy.
Chúng tôi đi trên lối nhỏ dọc theo thung lũng, phía dưới kia rì rầm tiếng suối rừng. Sau đó lại xuyên sâu qua những lùm cây tre xum xuê, những cây cọ, chuối rừng và hiện ra một mái nhà tre. Một người mặc áo quần nông dân từ thềm bước đến đón chúng tôi.
Nếu chúng tôi gặp Chủ tịch mấy ngày trước đó trên đường, trên đồng lúa thì chắc chúng tôi nghĩ rằng đó là một ông nông dân.
Một khuôn mặt thanh thoát cũng đã quen trên các bức chân dung với chòm râu đặc biệt, nụ cười thân thiện và hiếu khách.
- Chào các đồng chí! Sức khoẻ mọi người thế nào? Ông nói, vui vẻ chìa cả hai tay ra và mời chúng tôi vào nhà.
Ngay từ những giây phút đầu tiên, khi chúng tôi đã ngồi xuống bên bàn, phe phẩy những chiếc quạt bằng lá cọ, khi vừa cất lên những từ ngữ đầu tiên của cuộc nói chuyện tâm tình thì trong chúng tôi đã tan biến đi những căng thẳng hồi hộp theo suốt chúng tôi trên đường đợi chờ cuộc gặp gỡ tuyệt vời với nhà hoạt động cách mạng huyền thoại Đông Dương - Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Ở đây, trong rừng sâu miền Bắc Việt Nam, Người đã ở trọn tám năm - những năm tháng khốc liệt của chiến tranh, lao động căng thẳng qua những cuộc hành quân.
Không một khó khăn, không một gian truân đau khổ nào khuất phục được con người đã hiến dâng cuộc đời mình cho cuộc đấu tranh giành tự do cho nhân dân. Năm thứ tám của cuộc chiến tranh, khi ấy ông đã 64 tuổi. Nhưng ngồi trước chúng tôi là một con người tràn đầy nghị lực của tuổi trẻ. Trên khuôn mặt xạm gầy của ông và vầng trán cao không một vết nhăn. Cặp mắt nâu đen với những tia sáng rạng rỡ luôn luôn thu hút chúng tôi. Thỉnh thoảng trên cặp mắt thân thiện mỏi mệt của ông đượm buồn. Đó là khi ông nói về những đau khổ ngoài sức tưởng tượng mà nhân dân ông gánh chịu, về vô vàn những hy sinh mất mát, về sự dã man tàn bạo của kẻ thù.
Hồ Chí Minh đã mang theo suốt cuộc đời mình niềm tin cháy bỏng, rằng nhân dân Việt Nam sẽ giành được tự do và độc lập trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Bốn lăm năm của cuộc đời mình ông đã trao trọn cho cuộc đấu tranh đó.
|
BỨC THƯ CỦA NỮ TÙ BINH PHÁP ZENHEVIEVA GALLARD
Ngôi nhà bằng tre của đồng chí Hồ Chí Minh chẳng có gì khác so với những ngôi nhà khác của những người nông dân Việt Nam. Khác chăng chỉ là - ông mỉm cười chỉ cho chúng tôi và gọi đó là “Dinh Chủ tịch”, nó có hai tầng, tầng một là nơi ông làm việc, còn tầng trên là chỗ nghỉ ngơi. Trên bàn làm việc của ông có kẹp báo mới, chiếc máy chữ trứ danh của ông, mà nhiều phóng viên đến thăm ông hay nhắc đến - đó là chiếc máy chữ xách tay nhãn hiệu“Bebi”, mà ông dùng soạn thảo các bài viết, tài liệu, lời kêu gọi đồng bào và quân đội. Sách rất nhiều. Trên tầng hai chiếu trải trên sàn, chiếc va ly đi khắp chốn đã mòn vẹt.Trong góc nhà chúng tôi còn thấy một con mèo nâu cùng ba con mèo con. Bao quanh ngôi nhà của Chủ tịch nhìn ra ba phía là cọ và tre, thấp thoáng vài bóng chim sặc sỡ, tiếng hót lanh lảnh tràn ngập không gian. Hướng thứ tư mở ra quang cảnh khe núi thoáng đãng, vọng tiếng rì rầm của dòng suối, núi rừng.
Chúng tôi không nén được ngạc nhiên trước sự khiêm nhường của ngôi nhà ông ở.
- Còn tôi thì đã quen với điều kiện sống như thế này rồi - ông đáp lời. - Các anh thấy đấy, với tôi bất cứ lúc nào thu xếp lên đường cũng rất đơn giản. Những năm tháng đấu tranh cách mạng, hoạt động bí mật đã rèn luyện cho tôi điều đó. Bật đậy nhẹ nhàng như du kích. Sau năm phút thu xếp là sẵn sàng lên đường hành quân ngay.
Ông cũng hỏi tỉ mỉ về quãng đường mà chúng tôi vừa vượt qua.
- Chúng tôi quan tâm, ông nói, đến chuyến bay chuyên cơ đưa các anh tới Việt Nam, chứ đi bằng đường khác thì đi tới nơi phải lâu đấy - phải đi qua Thượng Hải, rồi Quảng Châu. Các anh dừng chân ở Bắc Kinh không lâu phải không? Hình như không phải lần đầu các anh tới Trung Quốc? Các anh đã đến đó nhiều năm trước đây, từ thời Tưởng Giới Thạch. Nhiều đổi thay đập vào mắt các anh trên đất nước Trung Hoa mới, các anh nhìn thấy chứ ?
Chúng tôi kể về những ấn tượng của mình.
- Khí hậu vùng chúng tôi ở đây các anh chịu đựng ra sao? Với các anh ở đây nóng nực lắm phải không?
- Chúng tôi cũng đã quen rồi, thưa đồng chí Chủ tịch, Jenhia Mukhin trả lời, tay vẫn quạt mạnh chiếc quạt lá cọ, lau những giọt mồ hôi to trên trán chảy thành dòng ở cổ áo sơ mi.
Câu chuyện chuyển sang những vấn đề liên quan đến công việc của chúng tôi.
- Theo ý tôi, cần phải lên chương trình làm phim – Chủ tịch Hồ Chí Minh nói. - Các đồng chí trong Trung ương sẽ giúp các anh việc này. Các anh đã gặp đồng chí Trường Chinh chưa? Nhất thiết phải gặp, thảo luận cùng đồng chí ấy. Hãy làm quen với những cán bộ văn học nghệ thuật của chúng tôi. Những nhà văn của chúng tôi, đáng tiếc là viết còn ít. Chúng tôi đã đọc các truyện của Borix Polevoi về những con người bình thường. Tại sao các nhà văn chúng tôi không có những dự định làm như vậy. Khi mà ở chỗ chúng tôi rất nhiều nhân vật – những người lính và những người nông dân. Phải thể hiện họ đúng tầm. Tất nhiên, đó cũng là nhiệm vụ của các anh trong quá trình làm phim. Nhân thể tôi muốn mời các anh dự buổi gặp gỡ các anh hùng Điện Biên Phủ. Chúng tôi sẽ trao tặng họ huân chương, phần thưởng cho những chiến công của họ.
Hồ Chí Minh kể cho chúng tôi nghe về trận chiến Điện Biên Phủ vừa kết thúc - một trận chiến lịch sử, nơi Quân đội nhân dân vừa giành được chiến thắng to lớn. Bắt 17 nghìn tù binh từ binh lính đến sỹ quan. “Quân đoàn viễn chinh Pháp bị chặt đầu” - báo chí tư bản Pháp đã viết như vậy trong những ngày này.
Hồ Chí Minh đưa chúng tôi xem bức thư của một nữ y tá Jenhevieva Gallard - người phụ nữ duy nhất trên mặt trận Điện Biên Phủ bị bắt làm tù binh. Trong bức thư, cô ấy khẩn cầu Chủ tịch hãy thả cô ấy. Cô ấy hứa: nếu chính phủ khoan hồng, thả cô, người phụ nữ duy nhất ấy về, cô ấy sẽ dốc toàn lực đấu tranh cho hoà bình ở Việt Nam.
- Tôi viết cho cô ấy - Hồ Chí Minh nở nụ cười hiền hậu và nói - bức thư của cô ấy đến sau mấy ngày khi tôi đã ra quyết định thả cô ấy. Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam đã yêu cầu tôi làm điều đó. Các anh thử nghĩ xem, chúng tôi bắt giữ tù binh cô ấy làm gì? Một phụ nữ yếu mềm, chắc chắn sẽ rất nặng nề nếu bị giữ làm tù binh. Chúng tôi vừa mới thả cô ấy và đây - ông chìa cho chúng tôi xem tờ báo mới của Pháp đưa tin về cuộc phỏng vấn đầu tiên của cô ấy tại Hà Nội. Cô ấy tận tình kể về thái độ nhân đạo của Quân đội nhân dân Việt Nam đối với tù binh Pháp, kể về những sự quan tâm to lớn của các chiến sĩ, sĩ quan, bác sĩ của chúng tôi đối với những người lính, sĩ quan Pháp bị thương. Ở Pháp người ta coi cô ấy là nữ anh hùng nhân dân, và dường như còn liệt vào hàng các vị thánh. Thực lòng tôi hoàn toàn tin cô ấy sẽ thực sự trở thành một chiến sĩ tích cực đấu tranh vì hoà bình tại Việt Nam. Tận mắt mình cô ấy đã chứng kiến tất cả những điều kinh hoàng và dã man của cuộc chiến tranh của bọn thực dân.
Кармен_Роман_Лазаревич |
CHÚNG TÔI KHÔNG ĐƠN ĐỘC
Hồ Chí Minh nói về tướng Đơ Catxtri, người đầu hàng cùng binh lực của mình tại Điện Biên Phủ:
Đơ Catxtri cũng nói đến hoà bình. Đó là bây giờ, khi ông ta đã là tù binh. Trước đây ông ta có nói tới hoà bình đâu.
Không hề giận dữ Hồ Chí Minh nói về viên tướng xâm lược tàn nhẫn, ông ta bây giờ đã bị vô hiệu hoá và đang ở trong trại tù binh.
Trong từng lời nói của vị Chủ tịch đã đứng tuổi cũng không thấy bóng dáng của sự mãn nguyện chiến thắng. Ông chỉ lắc đầu nói về sự tàn nhẫn của Đơ Catxtri. Trước mặt ông là tờ bìa tạp chí Pháp “Paris - Mach” với chân dung của người hơi gầy có chiếc mũi khoằm giống như mỏ của loài chim ác.
Đó là một kẻ rất là tàn nhẫn - Hồ Chí Minh nói, và lắc đầu.
Người dân lao động tỉnh Hà Đông, những người mẹ khóc sưng mắt vì những đứa con của mình bị giết, vì những người con gái của họ bị đọa đầy bởi bọn lính lê dương ngoại quốc, họ sẽ mãi không quên viên đại tá xâm lược Đơ Catxtri. Đó, viên tướng Đơ Catxtơri, chính ông ta đã chỉ huy đội quân viễn chinh càn quét ở đồng bằng sông Hồng vào tháng 7 năm 1951. Theo lệnh hắn, hàng nghìn tấn thóc cướp của nông dân bị tẩm xăng đốt cháy, trút xuống ruộng lầy, ném vung vãi trên đường. Theo lệnh hắn, xe tăng xéo nát những đồng lúa chin, đốt hơn 3 nghìn nóc nhà của nông dân, và hàng trăm người mà chúng nghi ngờ là theo du kích chiến đấu, bị bắn chết. Bây giờ, khi đã bị bắt làm tù binh hắn phủ nhận điều đó. Phủ nhận hết, chỉ thi thoảng thốt ra:
- Tôi là người lính, tôi phải thực hiện mệnh lệnh.
Những ngôn từ quen thuộc đến đớn đau! Chúng ta, những người Xô viết ,đã bao lần nghe “tôi là người lính ...” trong suốt cả bốn năm tại Xmolenxk, tại Xtalingrad, trên những làng quê đẫm máu Ukraina, Voloklamxki. “Tôi là người lính…” - khi bị dựa vào tường tại toà án Niurembe – Thống chế Keitel cũng nói như vậy.
Đại tá Đơ Catxtri nhận hàm tướng tại Việt Nam. Quân hàm đại tướng được thả dù xuống Điện Biên phủ. Hắn đầu hàng mà chưa kịp đeo quân hàm tướng. Và bây giờ trong trại giam tù binh, hắn nói “ Tôi là người lính ...”
Hồ Chí Minh nói về Giơnevơ. Bây giờ đây khó có thể nói trước về kết quả của Hội nghị Giơnhevơ. Nhưng chắc chắn là phải có kết quả. Lực lượng hoà bình trên trường quốc tế rất mạnh, trỗi dậy khắp mọi nơi trên thế giới. Ông chia ra cho chúng tôi một bức thư.
- Các anh xem, đây là bức thư từ Giơnhevơ. Một thành viên của đoàn đại biểu chúng tôi gửi cho một người bạn của mình “Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi không đơn độc. Bên cạnh chúng tôi có Chu Ân Lai, Molotov. Chúng tôi từng đi qua Trung Hoa vĩ đại. Ngày mồng một tháng năm chúng tôi đã đến Quảng trường Đỏ. Tại đây chúng tôi đã biết về chiến thắng vĩ đại Điện Biên phủ. Một cảm giác nhẹ nhàng và chúng tôi dũng cảm nhìn thẳng về tương lai”.
Tôi nhận được hàng nghìn bức thư - Ông Hồ Chí Minh nói - được gửi đến từ mọi vùng miền đất nước: từ những chiến sỹ Quân đội nhân dân, từ những người nông dân. Rất nhiều bức thư đến từ vùng còn bị tạm chiếm. Tất cả những bức thư ấy người dân Việt Nam đều gửi đến cho đoàn đại biểu của chúng tôi tại Giơnevơ. Trong những bức thư đó là sự tự tin ở sức mình, sự tin tưởng vào thắng lợi của lực lượng hoà bình. Thậm chí bây giờ đã lay chuyển cả những người mà chúng tôi vẫn gọi là “những kẻ trùm chăn” - họ đứng ngoài thế cuộc, quan sát từng bước đi chiến tranh. Bây giờ đây, tại Hà Nội họ ký tên vào bức thư, thể hiện sự đoàn kết với lời phát biểu cuối cùng của Phạm Văn Đồng tại hội nghị Giơnevơ. Đây, một người nông dân đã viết: “Tôi cày ruộng, các con trai tôi chiến đấu ở Điện Biên Phủ, các đồng chí chiến đấu ở Giơnevơ. Chúng ta cùng chung một chiến hào đấu tranh vì hoà bình”.
Hồ Chí Minh bình dị và khiêm nhường. Chối từ cả thư ký, ông tự mình đọc tất cả các tài liệu, tự mình trả lời, tự đánh máy viết bài. Ông thực hiện các cuộc hành trình lớn, dài ngày đi bộ hoặc đi ngựa, giản dị trò chuyện với nông dân ở các làng quê, trên đồng lúa. Vừa cười ông vừa kể chuyện ông gặp hổ ban đêm. Chắc sợ ánh đèn pha ô tô, con hổ bỏ chạy. Hồ Chí Minh nói:
- Thú dữ đáng sợ nhất là đế quốc-thực dân. Con hổ chỉ tấn công người khi nó đói, còn bọn thực dân đế quốc thì khát máu loài người vì lợi nhuận. Nhưng đó là điều vô vọng. Đáng lẽ những loài thú đó từ lâu phải nhận ra là việc cai trị và tiêu diệt nhân dân đang đấu tranh vì tự do là không thể, là vô nghĩa. Đó là sự ngu xuẩn không thoát khỏi diệt vong.
- Công việc các anh không dễ dàng gì - Hồ Chí Minh nói - Chúng tôi sẽ làm tất cả để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các anh, nhưng rất tiếc, những khó khăn trong thời chiến là rất lớn.
Hồ Chí Minh nói rất nồng hậu về tình cảm của người dân Việt Nam đối với Liên Xô.
- Các anh, những người Liên Xô đầu tiên đến Việt Nam sẽ cảm nhận được tình cảm đó ở khắp mọi nơi.
Những ngón tay mỏng mảnh nhẹ rung khi vê điếu thuốc lá và cặp mắt ngấn lệ khi chúng tôi kể về tình hữu nghị, sự cảm thông, sự đoàn kết với nhân dân Việt Nam đang chiến đấu được thể hiện tại Liên hoan Thanh niên và Sinh viên toàn thế giới lần thứ tư ở Bucaret, những anh hùng trẻ tuổi của Việt Nam được công kênh trên sân vận động.
Buổi trao đổi ý kiến chuyển sang nói bằng tiếng Nga. Chúng tôi hỏi ông:
- Học tiếng Nga có khó khăn lắm không?
Ông trả lời:
- Người cách mạng cần phải thông thạo tiếng nói của Lênin.
- Ông làm việc mấy tiếng một ngày?
- Chim muông đánh thức tôi dậy, ông trả lời - và lúc sao trên trời xuất hiện là lúc tôi đi ngủ.
Sau này chúng tôi biết là không hoàn toàn như vậy. Nhiều đêm chúng tôi thấy với chiếc gậy trong tay dưới ánh sáng của ngọn đuốc mà người bảo vệ soi đường, Hồ Chí Minh đi theo lối mòn nhỏ giữa núi rừng. Hồ Chí Minh trở về từ những chuyến đi xa đến làng bản, từ cuộc họp Chính phủ, hay từ cuộc nói chuyện kéo dài với những người từ phương xa đến thăm ông.
Chúng tôi sống cùng đồng chí Hồ Chí Minh gần trọn một ngày. Đôi khi ông xin lỗi, rời khỏi bàn làm việc để xem một bức thư khẩn, nói chuyện điện thoại. Những lúc đó ông đưa cho chúng tôi tập báo mới hoặc tạp chí tiếng Pháp có ảnh minh họa, hoặc là đề nghị đi xem thăm thú “dinh cơ”.
Tham dự cùng buổi chuyện trò còn có nhà thơ Tố Hữu và đồng chí Hoàng Tùng, những bè bạn đầu tiên mới quen từ hôm qua tại Trung ương. Tạm biệt chúng tôi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
- Chúng ta sẽ còn gặp nhau nhiều. Cứ mạnh dạn nêu yêu cầu tất cả những gì đảm bảo cho công việc các anh.
- Chúng tôi chỉ có một đề nghị duy nhất, thưa đồng chí Hồ Chí Minh - tôi nói - Điều đầu tiên và chủ yếu là chúng tôi muốn được nhìn thấy được đất nước Việt Nam. Những cuộc di chuyển ban đêm không cho phép chúng tôi làm điều đó. Rất mong đồng chí cho phép chúng tôi chạy xe trên đường vào ban ngày. Xin đảm bảo với đồng chí, ba anh em chúng tôi có đầy đủ kinh nghiệm chiến trường, chúng tôi lúc nào cũng có thể tự bảo vệ mình tránh khỏi các cuộc oanh tạc của máy bay địch.
Hồ Chí Minh lặng im một lát:
- Hoàn toàn không được, các đồng chí ạ! Chúng tôi đã mất mát quá nhiều các đồng chí đảng viên ưu tú của mình trong các cuộc không kích ném bom. Tôi rất hiểu những khó khăn của các đồng chí, nhưng chúng tôi không thể để các đồng chí liều lĩnh, và nếu cần di chuyển ban ngày thì hoặc là đi bộ, đi ngựa hoặc đi xe đạp. Cấm đi lại bằng xe trên đường vào ban ngày - đó là luật ở đất nước chúng tôi.
Nhìn nét mặt thất vọng của chúng tôi, Chủ tịch cười sảng khoái bắt tay chúng tôi và nói: :
- Đã rõ ràng rồi, ta thống nhất vậy nhé!
Roman Karmen.
(Hoàng Minh dịch)
Roman Karmen (1906 - 1978) là một nhà quay phim và đạo diễn kiệt xuất của nền điện ảnh Xô Viết. Trong chuyến đi làm phim tại Việt Nam năm 1954, ông đã làm bộ phim "Việt Nam" nổi tiếng phản ánh cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp. Roman Karmen còn viết tập “Ánh sáng trong rừng thẳm - ghi chép của một nhà quay phim" về chủ đề Việt Nam được Nhà xuất bản Hội Nhà văn Liên Xô in năm 1957. Bài viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong tập sách này. |