Ý kiến của cựu thẩm phán Nguyễn Quang Lộc - nguyên Chánh văn phòng Tòa án nhân dân tối cao về vụ án Hồ Duy Hải
Nhiều bạn bè, đồng nghiệp, học trò hỏi tôi về ᴠụ án Hồ Duy Hải. Quả thật tôi không được nghiên cứu hồ sơ ᴠụ án, chỉ nghe qua các luồng thông tin đa chiều nên không dám có ý kiến gì về việc kết tội đối với bị cáo Hải.
Ông Nguyễn Hòa Bình Chủ tọa phiên tòa |
Tuy nhiên, qua theo dõi phiên toà Giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC tôi xin nêu một số ý kiến về TTTTHS theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015. Xin nói trước là những ý kiến của tôi không nhằm chỉ trích ai mà trên tinh thần xây dựng, thượng tôn pháp luật.
1/Về thành phần Hội đồng Giám đốc thẩm
Điều 53 Bộ luật TTHS quy định “Thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm”
1. Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:
…c / Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng ᴠụ án đó với tư cách là Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án.
Đây là quy định của Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS năm 2015, được coi như là nguyên tắc xuyên suốt quá trình giải quyết ᴠụ án hình sự từ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Như vậy người nào đã tiến hành tố tụng ᴠụ án đó với tư cách là người tiến hành tố tụng thì phải từ chối tham gia xét xử ᴠụ án hoặc bị thay đổi. Việc ký quyết định không kháng nghị ᴠụ án hoặc trả lời khiếu nại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của những người tiến hành TTHS cũng chính là đã tiến hành tố tụng ᴠụ án.
Vì thế, tôi cho rằng ông Nguyễn Hoà Bình phải từ chối tham gia xét xử Giám đốc thẩm ᴠụ án Hồ Duy Hải vì ông Bình đã ký quyết định không kháng nghị ᴠụ án này với tư cách là Viện trưởng VKS NDTC.
Sở dĩ luật quy định như vậy để bảo đảm tính vô tư, khách quan, tránh áp đặt ý muốn chủ quan của người ngồi xét xử ᴠụ án.
Ông Bình ngồi xét xử, lại là Chánh án Toà án nhân dân tối cao chủ tọa phiên toà làm cho người ta đặt câu hỏi về tính Khách Quan, Vô Tư của phán quyết?!
Luật sư và thân nhân Hồ Duy Hải |
2/ Về thành phần triệu tập đến phiên toà
Điều 383 BLTTHS quy định:
…2/ Trường hợp xét thấy cần thiết hoặc có căn cứ sửa một phần bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, Toà án phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị tham gia phiên toà giám đốc thẩm; nếu họ vắng mặt thì phiên toà giám đốc thẩm vẫn được tiến hành.”
Chủ tọa phiên toà phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng trình bày hết ý kiến, tranh luận dân chủ, bình đẳng trước toà.
Tại phiên toà giám đốc thẩm này, luật sư của bị cáo chỉ được trình bày ý kiến mà không có tranh tụng. Việc Hội đồng giám đốc thẩm không cho phép luật sư tham gia đầy đủ phiên toà rõ ràng là vi phạm pháp luật. Có lẽ Hội đồng giám đốc thẩm sửa sai bằng việc triệu tập lại khi vị luật sư này đã buộc phải trở về thành phố Hồ Chí Minh trong tâm trạng “Bắc thang mà hỏi ông trời!”. Có lẽ đây cũng là trường hợp hy hữu trong lịch sử của nền tư pháp Việt nam?! Không biết có còn ᴠụ án nào học theo không?
3/ Về kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Hội đồng giám đốc thẩm cho rằng kháng nghị của VKSNDTC trái pháp luật nên không được chấp nhận. Vậy kháng nghị đó trái pháp luật nào?
Kháng nghị khi mà Quyết định số 639/QĐ - CTN ngày 17/5/2012 của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm án tử hình của Hồ Duy Hải đang có hiệu lực pháp luật? Luật nào quy định? Không có quy định nào về vấn đề này trong BLTTHS.
Thực tế thì Hồ Duy Hải không làm đơn xin ân giảm án tử hình, vậy Chủ tịch nước xét đơn của ai để ra quyết định bác đơn?
Khi Hội đồng giám đốc thẩm cho rằng kháng nghị trái pháp luật tức là không cần xem xét về nội dung của ᴠụ án thế mà phiên toà vẫn diễn ra trong ba ngày. Một kháng cáo hoặc kháng nghị đã không hợp pháp thì không có phiên toà.
4/ Về cái được gọi là “sai sót trong TTHS”
Tôi không đồng ý với cách gọi như vậy mà phải nói thẳng đó là những vi phạm nghiêm trọng quy định của Bộ luật TTHS mới đúng bản chất của sự việc. Vậy các vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS trong ᴠụ án có làm thay đổi nội dung, bản chất của ᴠụ án không?
Nội dung, bản chất của ᴠụ án phải được các cơ quan tiến hành TTHS chứng minh bằng chứng cứ được thu thập một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ để xác định sự thật của ᴠụ án. Đó thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là quy định của Bộ luật TTHS (Điều 15, Điều 85, Điều 86 BLTTHS).
Rõ ràng là trong ᴠụ án này, việc điều tra đã có quá nhiều vi phạm nghiêm trọng trình tự thủ tục TTHS từ khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng, dấu vết, nhận dạng vật chứng, mua cái không phải là vật chứng để cố tình hợp pháp hoá vật chứng…
Khi mà các cái gọi là chứng cứ được thu thập trái pháp luật, không đúng quy định của pháp luật và lại được sử dụng như là chứng cứ buộc tội thì không ổn vì đó không phải là chứng cứ. Vì thế nó không có sức thuyết phục, không đủ để chứng minh tội phạm và đương nhiên nó làm ảnh hưởng hoặc thay đổi nội dung, bản chất của ᴠụ án.
Sẽ là một tiền lệ và nguy hiểm hơn là án lệ cho các vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS nói riêng và pháp luật tố tụng nói chung. Đáng quan ngại!
5/ Về cái kết của ᴠụ án này
Theo quy định của Chương XXVll của BLTTHS “Thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “thì vẫn còn có những người sau có thể yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:
- Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội kiến nghị; - Viện trưởng VKS TC kiến nghị; - Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị;
Tuy nhiên xem ra chỉ là một phần ngàn của tia hy vọng mà thôi. Dù sao thì cũng vẫn hy vọng cho dù là vô vọng!