Trăn trở về đầu tư và bảo vệ môi trường
Chả nhẽ vì sợ dư luận “ném đá” mà cam chịu cảnh “chết dần vì ngu dốt” trong xã hội văn minh vật chất ngày càng đầy đủ này hay sao?
|
Khi biết tôi chuẩn bị viết một bài trăn trở về mâu thuẫn giữa đầu tư phát triển và ô nhiễm môi trường trong nền kinh tế thị trường, vợ khuyên: Đừng dại. Tai sao ? tôi cãi. Vợ đáp: anh không có chuyên môn, bằng cấp, học hàm học vị gì về lĩnh vực khoa học rộng lớn này. Đừng “múa rìu qua mắt thợ” mà mang họa vào thân, bài viết bị “ném đá” là cái chắc. Đúng. Tôi thừa nhận. Đóng máy lại nhưng vẫn thấy lòng day dứt không yên. Nhất là khi nghe trên TV và các thông tin đại chúng về những vụ ô nhiễm môi trường xẩy ra ngày càng nghiêm trọng. Tương lai, thế hệ con cháu chúng ta phải ứng phó với các hậu quả này ra sao ? Chả nhẽ vì sợ dư luận “ném đá” mà cam chịu cảnh “chết dần vì ngu dốt” trong xã hội văn minh vật chất ngày càng đầy đủ này hay sao. Nghĩ thế, tôi lại mở máy tính, lại viết, viết với tư cách là người trong cuộc, với trăn trở của tấm lòng hưu trí cho thế hệ mai sau.
Biết mình không phải là chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế và môi trường, tôi không dám bàn sâu, đi xa như những nhà nghiên cứu. Tôi chỉ xin kể lại ba câu chuyện “mắt thấy, tai nghe, tay sờ” xẩy ra trong 3 thời điểm khác nhau trong quá trình 38 năm công chức, trước khi được “hạ cánh đàng hoàng”, sống yên vui bên vợ, các con, cháu và bạn bè.
Chuyện thứ nhất, xẩy ra vào thời điểm năm 1998, khi tôi từ Văn phòng UBND tỉnh Nghệ An, được cử lên tham gia Hội đồng quản trị, giữ chức Phó Tổng giám đốc thứ nhất Công ty liên doanh mía đường Nghệ An Tate Lyle.
Hồi đó, không chỉ tôi mà bất kỳ một người Việt Nam nào đều ngỡ ngàng choáng ngợp khi bước chân vào nhà máy. Trước mắt tôi là một không gian xanh sạch đẹp “như Tây” của nhà máy. Cảm giác vào nhà máy mà như vào công viên đã tạo cho tôi nhiều háo hức và ấn tượng tốt đẹp. Trong đó, điều làm tôi ấn tượng nhất là hệ thống xử lý nước thải của nhà máy. Thời ấy, người Việt chúng ta, không mấy ai biết, nước thải của hệ thống nhà máy công nghệ thực phẩm chứa rất nhiều chất độc hại, không thể xả trực tiếp ra môi trường. Vậy mà, từ ngày ấy, song song với việc đầu tư xây dựng nhà máy đường với công suất ép 6.000 tấn mía /ngày, các ông “Tây tư bản”, đến từ Vương Quốc Anh đã bỏ ra một số tiền rất lớn để xử lý nước thải, trước khi đổ ra sông Hiếu. Sự tốn kém được thể hiện trong việc đầu tư xây dựng các bể lắng và hệ thống các máy bơm công suất lớn, phun và luân chuyển nước thải qua các hồ rộng lớn theo công nghệ châu Âu. Kết quả cuối cùng là hồ nuôi cá, trước khi tràn ra ngoài. Thời ấy, đã thành lệ, vào các ngày cuối tuần, một số gia đình Tây và Ta thường tổ chức các tiệc rượu ven hồ. Tại đấy, các ông chồng câu cá và góp rượu, các bà vợ nướng cá và góp lời. Mọi người ăn uống ca hát vui vẻ trên bờ hồ nước thải đã xử lý trước khi xả ra môi trường. Trong một lần vui vẻ, tôi “thắc mắc”: Việc gì mà các ông phải bỏ ra nhiều tiền như vậy để xử lý nước thải, trong khi luật môi trường ở Việt Nam (thời ấy) chưa nghiêm, quan hệ với chính quyền địa phương rất tốt, các ông không xót tiền sao? Mấy ông Tây nhìn tôi cười. Tôi cũng cười theo mà không biết họ cười cái gì. Sau này tôi mới được ông Tổng giám đốc trả lời: Không phải chúng tôi không xót tiền, không muốn tiết kiệm tiền đầu tư, nhưng muốn làm ăn lâu dài, nhất thiết phải bảo vệ môi trường như vậy.
Chuyện thứ hai xẩy ra 8 năm sau đó, khi tôi được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm giữ chức Trưởng Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Nghệ An. Thời điểm đấy Tổng Công ty Sữa Việt Nam Vinamilk nộp hồ sơ xin đầu tư xây dựng một nhà máy chế biến sữa tại Thị xã Cửa lò. Thời kỳ đó Khu Công nghiệp Thị xã Cửa Lò, dù đã được Chính Phủ phê duyệt chủ trương, tỉnh Nghệ An đã phê duyệt quy hoạch nhưng chưa có nhà đầu tư xây dựng hạ tầng. Nhà máy sữa VINAMILK là nhà đầu tư đầu tiên và duy nhất của khu công nghiệp “chết yểu” này. Tôi nói “chết yểu” vì sau đó Chính phủ quyết định không đầu tư xây dựng KCN Cửa Lò nữa.
Trong quá trình thẩm định, cấp phép cho nhà máy Sữa, tôi gặp rắc rối. Theo luật, các nhà đầu tư vào khu công nghiệp, chỉ phải xử lý sơ bộ nước thải trước khi chuyển đến khu xử lý nước thải tập trung do Công ty đầu tư hạ tầng Khu công nghiệp đầu tư xây dựng xử lý và thu phí. Vì vậy Tổng ty Sữa Việt Nam chỉ đưa ra một phương án xử lý sơ bộ hệ thống nước thải, chi phí thời ấy khoảng 2 tỷ VND và đề nghị cho phép thải về chung với hệ thống nước thải của Thị xã. Về lý, về Luật thì họ đúng. Còn tôi thì không thể chấp nhận. Tôi có cái lý của tôi: Khu công nghiệp Cửa Lò chưa có Công ty đầu tư hạ tầng, chưa xây dựng được khu xử lý nước thải tập trung. Vì vậy, tôi không được phép cho thải ra Thị xã du lịch một lượng lớn nước thải công nghiệp thực phẩm mới chỉ được xử lý “sơ bộ”. Với phong cách làm việc với “Tây” tôi tuyên bố thẳng thừng: Sẽ không bao giờ cấp giấy phép đầu tư cho nhà máy sữa VINAMILK Cửa Lò khi chưa có phương án xử lý triệt để nước thải, đủ tiêu chuẩn thải ra môi trường. Thái độ cứng rắn ấy của tôi không làm vừa lòng nhà đầu tư và một số lãnh đạo tỉnh lúc đó. Tôi bị chỉ trích rất nặng về tội “gây khó khăn cho các nhà đầu tư”, thậm chí còn bị vu oan, tố cáo về tội “đòi hối lộ” nhưng tôi vẫn kiên quyết giữ vững lập trường.
Cuối cùng, Tổng công ty Sữa Việt Nam buộc phải chấp nhận yêu cầu của Ban quản lý các khu công nghiệp. Họ đã bỏ ra gần 10 tỷ VND lúc đó để xây dựng một hệ thống xử lý nước thải đủ tiêu chuẩn thải ra môi trường. Bù lại, nhà máy sữa VINAMILK Cửa lò cho đến nay vẫn không vấp phải một rắc rối nào về xử lý nước thải và vệ sinh môi trường như các nhà máy công nghiệp thực phẩm khác.
Chuyện thứ ba xẩy ra vào năm 2015 tại Hà Nội. Khi đó tôi đã nghỉ hưu và được giới thiệu tham gia Ban liên lạc Hội Đồng hương Nghệ An tại Hà Nội dưới thời ông Nguyễn Mạnh Cầm (nguyên Phó Thủ tướng) làm Chủ tịch. Nhờ vậy tôi có cơ hội tham gia và chứng kiến một vụ “chạy” vi phạm Luật môi trường của một doanh nghiệp trong Hội đồng hương (xin được dấu tên).
Lần ấy, theo đơn tố cáo, nghi là của đối thủ cạnh tranh, một đoàn kiểm tra hùng hậu của môt cấp đầy đủ thẩm quyền (vì “tế nhị”, xin không nêu tên) đến kiểm tra “khi có dấu hiệu vi phạm” của doanh nghiệp. Sau hơn hai tuần “bới lông tìm vết”, đoàn kiểm tra họp với lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra một kết luận thanh tra dài, chỉ ra 5 vi phạm “cực kỳ nghiêm trọng” được ghi rõ trong Luật Môi trường cũng như các Nghị định, Thông tư và hệ thống văn bản pháp quy đang có hiệu lực. Trước những số liệu và văn bản “không thể chối cãi” nêu trên, Doanh nghiệp chỉ biết cúi đầu nhận lỗi và xin “chạy”. Trao đi đổi lại, gặp chung, gặp riêng trưởng đoàn mấy lần cuối cùng cũng có kết quả. Đoàn thanh tra đồng ý bỏ qua cho 2 lỗi lớn, chỉ xử lý 3 lỗi nhẹ với mức xử phạt 150 triệu đồng và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng vì “đã đến thanh tra không thể không xử lý”.
Chết. Số tiền nộp phạt không lớn, doanh nghiệp không lo. Điều mà doanh nghiệp lo và sợ nhất là truyền thông sẽ ảnh hưởng xấu đến uy tín thương hiệu. Vấn đề không cung cấp thông tin cho báo chí được khẩn cấp đặt ra. Doanh nghiệp được bí mật chỉ dẫn: “Việc này chỉ có lãnh đạo cấp trên may ra mới giải quyết được”.
Vận dụng nhiều mối quan hệ, cuối cùng đại diện doanh nghiệp cũng gặp và làm việc được với lãnh đạo cao nhất của đoàn thanh tra nói trên. Buổi làm việc diễn ra rất bài bản, nghiêm túc, “đúng quy trình”. Doanh nghiệp nhận được một cái bắt tay khá thân thiện trước khi về: “Chúng tôi sẽ nghiên cứu, xem xét để tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp”.
Hình ảnh minh họa |
Mọi việc sau đó diễn ra suôn sẻ. Không có tờ báo nào, kể cả báo mạng nhắc đến vụ việc. Tôi không biết chính xác số tiền doanh nghiệp phải bỏ ra để “chạy” cho vụ này là bao nhiêu. Mà có biết cũng không cần nói vì đấy không phải là mục đích của bài viết. Tôi chỉ biết là sau vụ này, cả “khổ chủ” và “sướng chủ” đều thở phào nhẹ nhõm, vui mừng theo hai hướng khác nhau, đôi bên đều có lợi.
Ba câu chuyện hoàn toàn có thật nêu trên, rất có thể là “thực tiễn sinh động”, là cơ sở để tôi đưa ra một số ý kiến đề nghị với Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường trong thời kỳ hội nhập của nền kinh tế thị trường.
Trước hết, tôi đề nghị Chính phủ, Quốc Hội có chủ trương rà soát, bổ sung, xây dựng hoàn thiện lại Luật bảo vệ môi trường theo hướng đơn giản, dể hiểu, dễ thực hiện, càng gần với các Luật bảo vệ môi trường của các nước tiên tiến trên thế giới càng tốt. Các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, phàn nàn về Luật Việt Nam nhiều lắm. Họ cho rằng Luật VN vừa thừa, vừa thiếu, nhất là “đuôi to hơn bụng”. Có người nói, chưa luật của có nước nào trên thế giới có “bộ đuôi” là các Nghị định, Thông tư, Văn bản hướng dẫn dưới Luật cồng kềnh, rắc rối, lắm “đèn vàng” như ở Việt Nam. Đề nghị này nghe có vẻ như: “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” nhưng tôi vẫn xếp vào đề nghị đầu tiên, ưu tiên nói trước. Bởi, tôi dám chắc, đa số các nhà đầu tư đến Việt Nam đều chỉ “nghe nói” đến Luật bảo vệ môi trường (như tôi) mà thôi. Họ phó mặc việc này cho các nhà Tư vấn đầu tư. Các nhà tư vấn đầu tư, trong nền kinh tế thị trường, đang mọc lên nhan nhản như nấm sau mưa cũng có nhiều “vấn đề” lắm.
Vì vậy, vấn đề thứ hai, tôi đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có giải pháp để nâng cao chất lượng, trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân được giao chức năng tư vấn, xây dựng các báo cáo tác động môi trường (ĐTM) cho các dự án. Tình trạng chung hiện nay là việc xây dựng và thẩm định ĐTM chỉ là để đối phó, để được cấp phép đầu tư nên tính copy thì cao mà tính khả thi rất thấp. Cần có chế tài xử lý nghiêm đối với những tập thể và cá nhân lập và thẩm định, phê duyệt các ĐTM không phù hợp với thực tế, các Doanh nghiệp không thể tổ chức thực hiện được.
Vấn đề thứ ba, tôi đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước cần hết sức nghiêm túc khi kiểm tra quá trình đầu tư xây dựng các hạng mục xử lý ô nhiễm môi trường của Dự án. Chấm dứt hiện tượng xuê xoa, “cho nợ” các hạng mục công trình đã được phê duyệt trong báo cáo tác động môi trường như thời gian qua, nhất là khi bị áp lực của cấp trên, nhà đầu tư hay vì lợi ích cá nhân mà bỏ qua những nguyên tắc cơ bản, dẫn đến vi phạm luật bảo vệ môi trường. Bài học về đầu tư hệ thống xử lý nước thải của FOMUSA Hà Tĩnh gần đây là một ví dụ đau xót.
Vấn đề thứ tư tôi muốn nhấn mạnh là cần có giải pháp tích cực, đủ nghiêm, đủ mạnh để nâng cao chất lượng, đạo đức của các đoàn thanh tra, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm tại các doanh nghiệp. Kiên quyết xử lý nghiêm những tập thể cá nhân bắt tay với doanh nghiệp vi phạm, lách luật để tham nhũng và nhận hối lộ. Kéo dài tình trạng này sẽ dẫn đến hiện tượng “nhờn luật”, tương tự như nhờn luật trong xử lý vi phạm an toàn giao thông hiện tại. Câu chuyện thứ ba của tôi và những lan truyền trên mạng về việc một ông Cục phó Thanh tra của Bộ T đi “Thu tô” ở miền Nam 2 năm trước, cần được phân tích mổ xẻ và xử lý nghiêm minh, công khai minh bạch.
Việc cuối cùng, tôi đề nghị báo chí, kể cả mạng xã hội phải vào cuộc. Vào cuộc một cách minh bạch, mang tính xây dựng và đàng hoàng. Nhà nước nên có những quy định rõ ràng, cụ thể để xử lý các phóng viên “bán linh hồn cho quỷ dữ”, đưa tin thất thiệt, gây tổn hại cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời động viên, bảo vệ các phóng viên dũng cảm, trung thực, chỉ ra các sai phạm của các doanh nghiệp để yêu cầu doanh nghiệp khắc phục triệt để.
Với kiến thức, trình độ có hạn, những đề xuất nêu trên của tôi chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự chỉ dẫn, phê bình bổ sung của các chuyên gia để con cháu chúng ta mai sau có được một môi trường sống tốt đẹp hơn trong tương lai. Mong lắm!
Phú Đức Phương