Nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến
Tây Tiến là một bài thơ có sức sống vì nó luôn luôn hiện đại; nó luôn luôn hiện đại vì nó viết về con người, viết một cách tự nhiên, chân thực.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi…
Hình ảnh minh họa |
*
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa…
*
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Hình ảnh minh họa |
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
*
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Quang Dũng
(Phù Lưu Chanh, 1948)
Về văn bản, bài thơ này in trong Ngữ văn lớp 12 tập 1, tr. 88, 89; NXB Giáo dục 2013. Văn bản này dựa theo tập Mây đầu ô, thơ Quang Dũng, NXB Tác phẩm mới, 1986 – tập thơ đã được Quang Dũng khi còn sống xem lại. Hai cái dấu ba chấm và một cái dấu chấm than cuối khổ là chúng tôi thêm vào.
Nhà thơ Quang Dũng (1921-1988) tên khai sinh là Bùi Đình Dậu. Sau đổi giấy khai sinh cho người anh họ là Bùi Đình Diệm, từ đó Diệm trở thành tên chính thức. Quang Dũng là tên con trai cả, cũng là bút danh. Quê ông là làng Phượng Trì, nay là Thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng. Đan Phượng thời Lê thuộc phủ Quốc Oai, Trấn Sơn Tây. Sau đó chuyển đi chuyển lại giữa hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây; nay thuộc Hà Nội.
Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ là những người nông dân mặc áo lính mà còn có những người thành phố, những trí thức có bằng tú tài tây hoặc cao đẳng, đại học… Tất cả làm nên phẩm chất Anh bộ đội Cụ Hồ: Vì nước quên thân trong ý chí; ruột thịt yêu thương trong tình cảm; chất phác, mộc mạc nông dân nhưng cũng hào hoa trí thức trong phong cách. Hai phong cách đó đến từ hai hướng khác nhau do xuất thân trong chống Pháp sẽ được hòa quyện nhuần nhụy hơn trong mỗi tâm hồn người lính thời chống Mỹ.
Bài thơ được in lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam số 11-12 tháng 4, tháng 5 năm 1949 với tên bài là Nhớ Tây Tiến. Sau, tác giả thấy rằng, chỉ nhắc đến Tây Tiến là nhớ nao lòng, nhớ “nẫu ruột” rồi, không cần chữ “Nhớ” nữa.
Tây Tiến là một bài thơ hay, hay từ tình cảm, hình ảnh đến nhạc điệu; là một viên ngọc toàn bích của thơ ca Việt Nam hiện đại; ai nhìn cũng thấy đẹp, ai đọc cũng thấy hay, nhiều người thuộc. Bởi thế, thật khó diễn tả về cái hay của bài thơ này một cách cụ thể. Mỗi câu thơ vừa rất thật lại vừa ảo; nó hàm súc, hồn vía, nên dùng để cảm thì được, mà nói bằng lời thì khó hết. Xin nêu một vài cảm nhận, một vài chú thích để cùng chia sẻ, khi cảm thụ bài thơ.
1.Bài thơ bắt đầu từ Nỗi Nhớ. Nhớ là một tình cảm thảng thốt, trào dâng, quay quắt, không nén được, bắt người ta phải cất lên thành tiếng gọi Huế ơi, quê mẹ của ta ơi (Tố Hữu). Những bài thơ viết từ nỗi nhớ là những bài thơ sâu sắc, đáng tin và dễ hay nhất. Ca dao tuyệt vời ám ảnh với Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai/ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa như ngồi đống rơm; Khăn thương nhớ ai/ Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất…/ Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt.Viết về nỗi nhớ, lý trí không chỉ đạo, mà tuôn theo dòng tình cảm, bởi thế nó có sự tự nhiên như nhiên, không gò gẫm, không lệ thuộc vào sự chi phối bên ngoài, không cả hướng theo “mục đích” của tác giả. Chỉ là sự tự thể hiện. Cho nên không thể nhìn Tây Tiến như một bài thơ miêu tả sự gian khổ và tinh thần vượt gian khổ của anh bộ đội Cụ Hồ. Trong kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Khương Hữu Dụng tả rất hay điều đó: Rồi dốc, rồi truông, leo rồi leo/ Rồi khe, rồi lạch, vòng cong queo/ Lên, bám vào mây, xuống, bíu gió/ Trượt chân, suối cuốn một làn rêu! (Từ đêm 19). Và Hữu Loan với Đèo Cả: Dưới cây bên suối độc/ cheo leo chòi canh/ như biên cương/ tóc râu trùm/ vai rộng/ Không nhận ra người làng/ rau khe/ cơm vắt/ áo phai màu chiến trường/ ngày thâu/ vượn hú/ đêm canh gặp hùm/ lang thang. Ở những câu thơ này, hay thì hay nhưng dụng công nghệ thuật đã ít nhiều phạm đến cái đẹp của tự nhiên, không đáng yêu như Tây Tiến.
2. Con người (tâm hồn) Quang Dũng được thể hiện như thế nào? “Hướng dẫn học bài”, phần ghi nhớ của sách Ngữ văn 12 viết: “Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mỹ lệ”. Đó có thể là một câu tổng kết hay. Nhưng nó lại khuôn văn học vào tính mục đích, vào sự phản ánh. Như trên đã nói, Quang Dũng chỉ nói về nỗi nhớ của ông, tâm trạng của ông, còn qua tâm trạng ấy thấy gì là chuyện của người đọc. Vì là nỗi nhớ, nó không nhất định phải tập trung cho người lính Tây Tiến, mà tất cả những gì nhà thơ đã nếm trải, đã đau khổ hoặc hào hứng. Nỗi nhớ không cần mạch lạc, tập trung. Nó chỉ là tất cả những gì không quên được. Các câu thơ đến từ mọi hướng. Đang nói về dốc núi, cồn mây, cọp Mường Hịch, cái chết gục lên súng mũ, bỗng lại Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Rồi bỗng nữa lại đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm! Thực tế những câu không viết trực tiếp cho chiến tranh, cho người lính lại sống lâu hơn, lại tự dựng cho mình một tượng đài riêng như Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Người ta biết đến Mai Châu nhiều hơn và mãi mãi biết dến Mai Châu vì câu thơ này! Con người Quang Dũng cũng phải phải là lát cắt ngang thời đại, là một anh bộ đội thuần túy. Mà còn là tráng sĩ thời phong kiến, còn là cái tráng khí nam nhi thời nào cũng có, thích gian khổ, ngang tàng; thích yêu đương lãng mạn. Trai không có phong sương, không mơ mộng về một nàng; thơ không có tình yêu, nó như không còn nó nữa! Quang Dũng còn là hồn văn chương dân tộc ở cách viết hiện thực lẫn trong ước lệ, trong những từ ngữ, hình ảnh có tính biểu tượng như đuốc hoa, xiêm áo, dáng kiều, viễn xứ, áo bào. Nhịp điệu thơ cũng vừa Đường thi, vừa tự do. Có lẽ đây là một kinh nghiệm cho những người làm thơ: biết làm mới trên nền cũ, không thể cắt đứt cái cũ. Từng chi tiết trong bài thơ là rất thực, là những gì nhà thơ chứng kiến trong cuộc hành binh Tây Tiến; song cái thực ấy được “nhớ” lại; nó lắng qua hồn rất sâu, khi dâng lên đã thành hương. Những gì tạp và nặng, không gợi cảm xúc thẩm mỹ đã rơi rụng. Như nhìn dòng nước lũ không thấy rều rác mà chỉ thấy hoa đung đưa. Như đêm lửa trại, không thấy cái cụ thể, mà chỉ thấy hình ảnh của ước mơ, của những Quý Phi, Vương Chiêu Quân, của một man nương (kìa em xiêm áo). Rồi cây lau cũng hóa hồn; Sông Mã cũng như người khi êm đềm lặng chảy, khi gầm lên trong khúc độc hành. Chỉ một câu Sông Mã gầm lên khúc độc hành, vừa thấy cái khí mạnh, cái thống nhất của đoàn quân Tây Tiến; vừa thấy cái xa khác với đời ở nhiều phương diện.
Tây Tiến là một bài thơ có sức sống vì nó luôn luôn hiện đại; nó luôn luôn hiện đại vì nó viết về con người, viết một cách tự nhiên, chân thực.
3. Về một số từ. Chơi vơi trong “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” là gì? Ngày nay ta hiểu chơi vơi là một trạng thái không vững, nó gợi tới một cái gì đó chênh vênh trên cao. Cũng hiểu chơi vơi là cái gì trong khoảng không, trong tư tưởng không xác định, không vững vàng. Tôi không cho là nhớ về những cái chơi vơi mà nhớ về những cái làm tác giả chơi vơi, không yên được, không vững được.Ca dao có câu: “Ra về nhớ bạn chơi vơi/ Nhớ chiếu bạn trải, nhớ nơi bạn nằm”, thì nỗi nhớ này là không thể hời hợt, “chơi vơi” như cách nghĩ hiện nay. Về chữ đuốc hoa (Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa), sách giáo khoa 12 và các bài viết khác đều chú là “hoa chúc”, nến thắp trong phòng đêm tân hôn. Cổ thi, in trong sách Ấu học ngũ ngôn thi ngày xưa viết về bốn niềm vui (tứ hỉ) như sau: Cửu hạn phùng cam vũ/ Tha hương ngộ cố tri/ Động phòng hoa chúc dạ/ Kim bảng quải danh thì (Hạn lâu gặp mưa rào, Xa quê gặp bạn cũ, Đêm tân hôn động phòng, Bảng vàng treo tên thi đỗ). Đây có phải giấc mơ về đêm tân hôn không? Tôi nghĩ là không. Nếu trích điển thì nó gần với câu Trú đoản khổ dạ trường/ Hà bất bỉnh chúc du (Khổ vì đời ngắn mà đêm dài, Sao không đốt đuốc mà đi chơi đêm) hơn. Đây là quan sát sáng tạo của Quang Dũng: Mỗi cô gái (Thái hoặc Lào, có lẽ là Lào) là một bó đuốc hoa, nhờ những cô gái đó mà cả doanh trại thành một hội đuốc hoa: những người lính cục mịch, gian khổ, đánh đấm bỗng thăng hoa, hồn thơ, tỏa sáng… Không chỉ đàn bà, con gái; nhưng rõ nhất là đàn bà, con gái mới thức dậy được bản năng, bản tính tốt đẹp của người đàn ông, vì đó đời mới là đời, đời đáng sống hơn! Man trong “Man điệu”: Dân Hoa Hạ Trung Quốc xưa coi phía bắc là Bắc địch; phía nam là Nam man; phía tây là Tây nhung; phía đông là Đông di; gồm những tộc thiểu số kém văn minh hơn. Chữ man điệu vừa chỉ điệu nhạc, điệu múa của người thiểu số, song ở đây cũng ca ngợi cái tự nhiên, mạnh mẽ bản năng con người. Bản năng được thừa nhận, được coi là cái đẹp cũng là bước tiến về tư tưởng và nghệ thuật!
Cuối cùng xin nói về câu Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày sinh nhà thơ Quang Dũng do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức ngày11-11-201 tại 19 Hàng Buồm, chúng tôi mời nhà thơ Vân Long, người bạn thân trong nhóm chơi Phan Kế An, Trần Lê Văn, Ngô Quân Miện, Lữ Giang, Vân Long, Quang Dũng… phát biểu. Ông kể, xưa Nguyễn Ngọc Chương (Chiêu Dương) và Bùi Đình Diệm (Quang Dũng) chơi rất thân. Bước vào kỳ thi “đíp-lôm” (lấy bằng Thành chung) ở Hà Nội, Chương rủ bạn đến chơi nhà mấy chị em cô Kiều nổi tiếng xinh đẹp, con một ông chủ thầu khoán, ở số 68 Hàng Bông. Mấy chị em này có tên bắt đầu bằng “Kiều”: Kiều Vinh, Kiều Dinh, Kiều Hinh và Kiều Hương. Chàng Chương đã phải lòng Kiều Dinh, định giới thiệu cho bạn một trong ba cô còn lại. Ông bố thấy hai chàng trông đẹp mã, nhưng giao hẹn phải thi đỗ, “phi đíp-lôm” bất thành phu phụ”; không ngờ cả hai chàng sau đó đều trượt vỏ chuối!
Câu thơ này có thời bị phê phán là tiểu tư sản. Không những thế, lại kích thích chuyện vào thành. Nếu chỉ nhớ không, như Nguyễn Đình Thi chẳng hạn, thì không sao“Những đêm dài hành quân nung nấu/ Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”. Không sao nhưng cũng không được khuyến khích. Còn Quang Dũng thì là thứ phải dè chừng! Một thực tế trong thời kháng chiến chống Pháp là, một số cán bộ kháng chiến không chịu được gian khổ đã bỏ về Hà Nội, gọi là “vào thành”, có người ở yên, có người làm công chức cho Tây để nuôi nhà, có người hợp tác với Pháp.“Vào thành” là một nghi án, một tội gần với tội phản bội. Người lính đi chiến đấu mà lại đêm đêm mơ về Hà Nội, mơ về những cô gái thì còn tinh thần đâu mà chiến đấu; với cái anh chiến sĩ như thế cần theo dõi, không khéo có ngày trở cờ, quay súng! Cái sự cẩn thận, cái lý lẽ của một số người trong một thời là thế. Đã liên quan đến Nhân văn - Giai phẩm, lại có những câu thơ bị suy diễn như thế, Quang Dũng suốt mấy chục năm, từ 1960 - 1984, hầu như không làm thơ, không nhắc đến thơ mình trước người lạ. Nếu am hiểu văn học và con người, thì câu Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm là một câu thơ hay, nói lên sự phong phú và quan hệ biện chứng trong tính cách của người lính viễn chinh. Nếu không mơ về tình yêu, không vì tình yêu thì không có động lực chiến đấu. Mọi người lính chân chính đều chiến đấu, đều sẵn sàng hy sinh vì cái đẹp, vì tình yêu. Đó là người lính có lý tưởng, có tính tự giác, biết vì những giá trị nhân bản. Nếu chỉ vì mệnh lệnh mà không có giác ngộ, đó chỉ là người lính đánh thuê! Cái oan của câu thơ Quang Dũng không cá biệt, mà như Nguyễn Du nói, đó là phong vận kỳ oan của những tài sắc hơn đời. Và sau oan khuất thì giá trị thật càng được sáng lên!
Không chỉ có Tây Tiến. Quang Dũng có nhiều bài thơ hay khác trở thành những giá trị văn hóa của dân tộc. Ông có những câu thơ biến thành thiên nhiên đất nước. Ngoài Mai Châu mùa em thơm nếp xôi còn có Mắt người Sơn Tây, Tôi nhớ Xứ Đoài mây trắng lắm…
Mỗi lần bước ra khỏi ô Cầu Giấy, tôi lại ngước mắt nhìn trời tìm những đám mây trắng nghìn năm. Mỗi lần gặp người con gái Sơn Tây, tôi lại thầm soi vào ánh mắt để dò biết cái độ luyến láy, thăm thẳm của tình yêu. Và nhớ những nhà thơ Xứ Đoài, nhớ Sóng gợn Sông Đà con cá nhảy/ Mây trùm non Tản cái diều bay. Chiều xanh vẫn thấy bóng Ba Vì nhưng những Tản Đà, Quang Dũng, Ngô Quân Miện đã biệt vào miền hư ảnh… Hay các ông vẫn đó, vòi vọi Ba Vì?
Nguyễn Sĩ Đại