“Thơ hay như gái đẹp”?
Có những địa danh vốn bình thường, nhưng khi được nghệ thuật chạm tới, bỗng trở nên vĩnh hằng cùng cái đẹp. Bài thơ “Sông Thao” của Nguyễn Duy có lẽ đã tạo nên vẻ đẹp vĩnh hằng cho sông Thao?
Khi nghệ thuật chạm tới...
Tiêu biểu là đảo Mi-lô (Milos) của Ý khi vào năm 1820, một nông dân tên là Ken-trô-tát (Yorgos Kentrotas) đã tìm thấy pho tượng Thần Vệ Nữ (Aphrodite, Vesnus) là nữ thần Tình yêu và Sắc đẹp của nhà điêu khắc A-lếch-xăng-đrốt (Alexandros) chế tác bằng đá cẩm thạch vào khoảng năm 130 trước Công nguyên. Đó cũng là trường hợp của Lầu Hoàng Hạc ở TP Vũ Hán -Trung Quốc (hiện nay, Vũ Hán đang gây sốt sùng sục khắp thế giới với “viruss Vũ Hán”/ Covid-19) với bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, trong đó có câu “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” mà người lữ thứ nào cũng soi thấy mình trong đó .
Sông Thao Việt Nam là cái tên thân thuộc, nhất là với người Yên Bái, Phú Thọ. Sông Hồng bắt nguồn từ Nguy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, vào Việt Nam ở tỉnh Lào Cai. Cho nên gọi Lào Cai là “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt”. Phần sông ở Trung Quốc gọi là Nguyên Giang. Đoạn Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ đến Việt Trì thì gọi là Sông Thao. Đến Ngã ba Hạc, sông Thao hợp với Sông Đà (từ Trung Quốc chảy qua Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Phú Thọ) và sông Lô (từ Trung Quốc chảy qua Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ) làm nên Sông Hồng.
Tôi không biết vì sao người xưa gọi tên sông là Thao. Theo nghĩa chữ Hán, Thao (滔 ) là mênh mông, ngập đầy chăng? Theo liên tưởng của tiếng Việt, sông Thao lại gợi nên sự dịu dàng, thao thiết. Không biết nhà thơ Nguyễn Duy đã từng tắm (theo nghĩa đen) trên con sông ấy chưa, nhưng tôi thì đã mấy lần. Lần thứ nhất, trước giải phóng, theo anh bạn sinh viên Trần Nhật Chính về quê xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh đi vớt củi, đánh cá mấy ngày liền vào mùa nước lũ. Lần thứ hai là vào năm 1984, theo đoàn làm phim tài liệu lên Cốc Lếu. Ngày ấy, thị xã Lào Cai còn tan hoang vì chiến tranh biên giới, dọc đường đầy những cỏ chè vè. Xe vừa dừng, cứ nguyên cả quần áo, tôi nhảy ùm xuống sông để thịt da được đẫm hồn đất nước, làm đạo diễn Trần Thành và nhà quay phim Ngọc Trai hoảng hốt, không biết chuyện gì xẩy ra… Sông Hồng, sông Thao vì thế trong tôi cũng không thể nào quên được.
Với lại, những ai đã ngồi trên ghế nhà trường, những ai yêu âm nhạc làm sao không nhớ Sông Thao trong câu thơ Tố Hữu Sông Thao nao nức sóng dồi/ Ai về Hà Nội thì xuôi cùng thuyền (Ta đi tới); không nhớ Mênh mông trôi cát tới chân làng quê/ Cuối sông nhìn bến ai về có thấy đồng lúa nương chè với mối tình thắm bên làng quê/ Hồng Hà chơi vơi dâng nước trên nguồn về khơi… trong bài hát “Du kích Sông Thao” của Đỗ Nhuận? Và từ sau năm 1980, nhắc tới Sông Thao không thể không nhắc tới bài thơ “Sông Thao” của Nguyễn Duy.
SÔNG THAO
Sông Thao thêm một lần tôi tắm
thêm một lần tôi đến để rồi đi
gió cứ thổi trống không ngoài bãi vắng
tôi nhìn em để không nói năng gì
Tôi gửi lại đây nỗi buồn vô cớ
để mang về cái nhớ bâng quơ
xin chớ hỏi tại làm sao như vậy
tôi vốn không rành mạch bao giờ
Em đưa tiễn bước chân gìn giữ lắm
hạt mưa dùng dằng ngọn cỏ ven đê
yêu mến ạ xin đừng buồn em nhé
dòng nước trôi đi, giọt nước lại rơi về...
Thật ra, bài thơ này lại không viết ở Sông Thao mà viết bên bờ sông Kỳ Cùng năm 1980, thoạt đầu in trên báo Văn nghệ, sau in trong tập “Ánh trăng” (NXB TPM, 1984). Trạng huống làm nên ý thơ ám ảnh trong tác giả chính là sự gìn giữ, dùng dằng, lưu luyến không dứt. Việt Nam là đất nước của những dòng sông nên người ta đón nhau, tiễn nhau nơi bờ đê, bến nước. Bởi thế chúng trở thành chất liệu văn học, thành biểu tượng văn hóa:
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
(Chinh phụ ngâm)
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
(Nguyễn Bính – Chân quê)
Sông Kỳ Cùng phát nguyên từ Đình Lập, qua TP Lạng Sơn, “chảy ngược” lên Văn Lãng, Tràng Định rồi rẽ phải sang Trung Quốc. Đây là con sông không có đê mà chảy giữa những bãi bờ nhỏ và vách núi. Sông Thao là nơi nhà thơ Nguyễn Duy từng qua, sông Thao là nơi có con đê rất đẹp, và tôi đồ rằng, người con gái kia có thể quê Phú Thọ nên Nguyễn Duy đã lấy tên bài thơ là Sông Thao. Đây là một thủ pháp nghệ thuật. Sông Thao vừa cụ thể, vừa có tính ước lệ, mang tính biểu cảm cao, gợi nên sự tha thiết, mênh mông mà cũng vô định, không kỳ cùng được. Nó báo hiệu về một điều gì thật lớn nhưng cũng thật mơ hồ, dang dở…
Có thể có một ngươi con gái cụ thể, một mối tình lãng mạn không?
Nhà thơ Nguyễn Duy |
Nhà thơ Nguyễn Duy (Nguyễn Duy Nhuệ) sinh năm 1948 ở TP Thanh Hóa, nhập ngũ năm 1966, vốn là lính đường dây của Binh chủng Thông tin. Rồi anh về học khóa 16, Khoa Văn ĐHTH Hà Nội (1971-1975), tôi học khóa 17, nên được biết và ngưỡng mộ anh từ hồi ấy, nhất là năm 1973, khi anh đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam. Trong kháng chiến chống Mỹ, thơ là vua, là nữ hoàng. Nhà thơ được coi là đỉnh cao nhất của danh vọng; danh vọng (thực) là điều tự hào nhất, hạnh phúc nhất trong cuộc sống. “Trường phái” Tổng hợp và “Trường phái” Sư phạm (Hà Nội) vốn là hai cành của một cội nhưng có sự phát triển theo hai chiều hướng khác nhau và cùng tỏa sáng. Về thơ, bên Sư phạm ít hơn nhưng có những đỉnh lớn như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm. Bên Tổng hợp thì kể không hết, hầu như khóa nào cũng có những nhà thơ nổi danh: Phan Cung Việt, Ý Nhi, Trúc Thông, Vương Trọng, Vũ Duy Thông, Mã Giang Lân, Nguyễn Trọng Định, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Huy Nhuận… Nhưng có lẽ có Lê Anh Xuân và Nguyễn Duy là hai tài năng vượt trội và thơ của họ có sức lan tỏa lớn trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại.
“Sông Thao” nằm trong chùm ba bài viết về một người?
Ngày 17-2-1979, Trung Quốc bất ngờ tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Trong không khí “cả nước đánh giặc, toàn dân là lính”, cùng với các nhà thơ chiến sĩ bên VNQĐ, Hội Nhà văn và Báo Văn nghệ cử những cây bút gạo cội, những người lính vừa bước từ chiến tranh chống Mỹ ra như Phạm Tiến Duật, Đỗ Chu, Nguyễn Duy… lên ngay chiến trường Lạng Sơn ngày 18-2-1979, vừa làm phóng viên mặt trận vừa có thể tác chiến như người lính. Và Nguyễn Duy đã gặp một cô giáo trẻ của trường Đông Kinh Phố, không đi sơ tán mà ở lại trực chiến. Không biết tấm lưng cô gái ấy thế nào mà giữa “súng nổ rụng cả hoa đào”, tấm lưng ấy đã neo lại trong lòng thi sĩ như một đêm dạ hương, một cánh buồm đưa cuộc sống bay về phía tình yêu và sinh sôi nảy nở. Ngày 24-2-1979, anh viết bài Dạ hương:
Sẽ rất nhớ dáng người vừa thoáng gặp
chiều Lạng Sơn súng nổ rụng hoa đào
những giọt máu của vườn cây vung vãi
Trường sơ tán rồi, cô giáo còn chốt lại
khẩu súng thép chéo lưng con gái
ôi tấm lưng kia ngỡ sinh ra để mà mềm mại
Dáng điệu ấy chốt lại lòng ta mãi
như dạ hương thoáng gặp một đêm nào
Một năm sau anh có bài “Sông Thao”. Mười năm sau, anh có bài “Lạng Sơn 1989”:
Ta về thăm chiến trường xưa
em – hoa đào muộn Kỳ Lừa mùa xuân
gió đi để lạnh mưa dầm
người đi để buốt dấu chân trên đường
Đồng Đăng... Ải Khẩu... Bằng Tường...
chợ trời bán bán buôn buôn tít mù
ta đầy một bị ưu tư
giá như cũng bán được như bán hàng
Trớ trêu nỗi Hữu Nghị Quan
giá như máu chẳng luênh loang mặt đèo
A. Q. túm tóc Chí Phèo
để hai bác lính nhà nghèo cùng thua
Nỗi Tô Thị xót xa chưa
giá như đừng biết ngày xưa làm gì
giá như đá chả vô tri
để ta hỏi lối trở về thiên nhiên
Giá như ta chớ gặp em
để không mắc nợ cái duyên Kỳ Cùng
giá như em đã có chồng
để bòng bong khỏi rối lòng người dưng.
Đọc xong bài thơ này, tôi hy vọng bạn đọc có thể hiểu phần nào câu chuyện và có thể đồng cảm hơn khi cùng nhau khám phá bài Sông Thao. Ấn tượng đầu tiên mà bài thơ mang lại là một sự vu vơ, không rành mạch. Nhân vật “tôi” thì đến rồi đi. Gió thì thổi trống không ngoài bãi vắng. Tưởng chẳng có gì vu vơ, vô duyên hơn thế. Người con gái thì không nói, gìn giữ cả từng bước chân. Quan hệ giữa hai người thì không có bắt đầu (như bạn học, người cùng quê…), không có kết thúc (là tình bạn, tình nhân hay hôn nhân).
Thế thì tại sao bài thơ lại ám ảnh, lại được nhiều người nhớ lâu đến thế? Có một cái gì đó. Cái gì đó mà kéo được trời nước sông Thao, kéo từng ngọn cỏ, ngọn gió đang phóng túng dường kia lại quanh quẩn giữa hai người? Ở tầng nghĩa thứ hai, ta thấy ngọn gió chẳng vô tình tí nào, nó đang canh gác, đang can dự. Cái gì đó là có thật, hơn thế là rất đẹp, rất thuận lẽ tự nhiên nên cái gì đó đang có giữa hai người là sự hài hòa với tự nhiên, hay đúng hơn là một phần của trời đất này. Câu thơ Tôi vốn không rành mạch bao giờ, có người nghĩ nhà thơ như người hay quyến rũ phụ nữ kiểu Don Juan, hay tệ hơn là kẻ bắt cá hai, ba tay.
Tôi hoàn toàn không nghĩ thế. Trong sự gặp gỡ để rồi chia tay (nghĩa đen) ấy, hai người muốn nói, muốn nói lắm nhưng không thể diễn tả được cái thật, cái sâu sắc và phong phú bên trong. Vì nó lớn hơn ngôn ngữ. Nó khác hơn những khái niệm, quan niệm. Nó là một cái gì đó phi thường, không thể bày tỏ, cắt nghĩa một cách rành mạch được. Tôi nhớ Lão Tử nói: Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh.
Nghĩa là cái đạo mà nói ra, mà giải thích cho nhau nghe không còn là đạo thường; cái tên gọi, cái danh mà anh mang chỉ là tương đối chứ không phải tên thật, danh thật của anh, của sự vật. Cuộc đời vốn vậy và nên nhìn cuộc đời như vậy để bao dung hơn, nhân bản hơn, tiệm cận với chân lý hơn. Không thể trói con người trong những sợi dây có sẵn, không thể đối lạp đạo đức với khát vọng cá nhân. Cả mười mấy thế kỷ phong kiến đã chẳng sai khi coi trung quân là yêu nước, yêu nước phải trung quân đó ư?
“Cái gì đó” trong bài thơ này có thể không thể gọi tên được, nhưng chắc chắn có tình yêu thương và sự gắn bó thiêng liêng, bền vững.
Câu kết Yêu mến ạ xin đừng buồn em nhé/ Dòng nước trôi đi, giọt nước lại rơi về... vừa là câu kết có hậu theo thi pháp truyện cổ tích, vừa là sự khẳng định không có gì trên đời tự nhiên sinh ra, không có gì tự nhiên mất đi. Nhà thơ không chỉ truyền đến cô gái mà mình yêu mến – chữ yêu mến ở đây đã được dùng nhẹ đi nhưng để thật hơn, để không phải đao to búa lớn – mà để khẳng định trong lòng mình, truyền đến bạn đọc sự ấm áp của tình đời.
Dùng cái động để nói về cái tĩnh hay ngược lại, là thủ pháp nghệ thuật cao diệu của các cụ ta xưa. Dùng cái vu vơ, bâng quơ… để nói một cái gì có thật, sâu lắng đến những từ sâu lắng nhất cũng không nói được, là thủ pháp cao diệu của Nguyễn Duy trong bài Sông Thao.
Hình ảnh minh họa |
Nguyễn Duy nói mình “không rành mạch bao giờ” là một sự rành mạch: Rành mạch với tình cảm, suy nghĩ của mình; với những quan sát, tổng kết từ thực tế mà không lệ thuộc vào giáo điều nào. Cùng với sự kết tinh văn hóa dân tộc, nói theo lối nói dân dã; Nguyễn Duy tránh được con đường giả dối, khoa trương, cách nói cho Tây, cho lạ, cho hiện đại mà thật ra là sáo rỗng và hợm hĩnh. Anh đã để lại rất nhiều những bài thơ hay, câu thơ hay. Như “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”:
Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa
Như “Đà Lạt một lần trăng”:
Em nhóm bếp bằng củi ngo chẻ nhỏ
ngọn lửa lấp đi khoảng vắng giữa hai người
tôi lơ đãng nhìn em nhìn lơ đãng
siêu nước pha trà vừa ấp úng sôi
Và như “Ông già Sông Hậu”:
Chủ giục khách nhậu đi đừng hỏi nữa
việc bán lúa dư đăng báo chi cho phiền
dư ít nuôi làng, dư nhiều nuôi nước
thành tích có gì mà phải nêu tên.
Yêu nước ở đây là lẽ tự nhiên, là bản chất, có chi phải đăng báo khoe khoang thành tích (Có dị bản của câu thơ này như sau Tao thừa thóc thì bán cho Nhà nước/ Thành tích đéo gì mà phải nêu tên).
Nguyễn Duy cũng rành mạch trách nhiệm thi sĩ công dân khi vào năm 1982 viết:
“Cần lưu ý/ lời nói thật thà có thể bị buộc tội/ lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương/ đạo đức giả có thể thành dịch tả/ lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường … Cần lưu ý có lắm nghề lạ lắm/ nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau/ nghề chửi đổng, nghề ngồi lê, nghề vu cáo/ nghề ăn cắp lòng tin và chẹt họng đồng bào/ có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm gì cả/ thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề…”.
Nhà thơ Nguyễn Duy kể: Đồng chí Võ Văn Kiệt nghe chính anh đọc bài này ở nhà Nguyễn Quang Sáng, ông lặng đi một chút rồi nói: “Nặng đấy, nhưng chịu được”. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì ghé tai tác giả: "Sự chân thành tự nó hóa giải bế tắc. Hãy xem lại cái cây mình có thật ngay thẳng không. Cây ngay chẳng sợ chết đứng".
Bây giờ thì bài “Đánh thức tiềm lực” của Nguyễn Duy đã được thừa nhận. Nó mang tính dự báo cao. Gần đây bài này đã được trích đưa ra cho học sinh thi tốt nghiệp phổ thông! Và tôi càng phục ông Chế Lan Viên “Thơ hay như gái đẹp/ Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng”.
Thơ Nguyễn Duy đã vượt được thời gian và nhiều rào cản./.
Nguyễn Sĩ Đại