Nhà thờ họ Vũ Đại Tôn làng Đông Xương nơi lưu trú những ẩn tích lịch sử của những vị Công Thần Kỳ 1. Vũ Trung Lương vị Công thần của nhà Lê
Với lịch sử hơn 500 năm, khu di tích lịch sử nhà thờ họ Vũ đại tôn ở làng Đông Xương nay là xóm Đông Mỹ, xã Diễn Mỹ (Diễn Châu, Nghệ An) đang còn chứa nhiều điều mà chính sử đang xem là một ẩn số.
Nhà thờ họ Vũ đại tôn làng Đông Xương được xây dựng từ năm Canh Ngọ 1510 tại trung tâm của làng Đông Xương để thờ Lê triều tán trị công thần, Đặc tiến phổ quốc, Đại Tướng Quân, Tham đốc, Dũng Nghĩa hầu Vũ Tướng công thụy Trung Chất Viết Cương Nghị.
Nguyên xưa vùng đất này có tên kẻ Trai, thuộc giáp Trung Đình, làng Đông Xương, tổng Vạn Phần, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, xứ Nghệ, và ổn định tới nay, Di tích thuộc xóm Đông Mỹ, xã Diễn Mỹ (Diễn Châu, Nghệ An).
Lãnh đạo Sở Văn hoá trao bằng công nhận Di tích lịch sử nhà thờ họ Vũ. |
Ban đầu, đây là ban thờ phụng do con cháu trong gia đình lập nên để thờ Tham đốc, Dũng nghĩa hầu, Đại tướng quân Vũ Trung Lương; đến năm Cảnh Hưng 39 (Mậu Tuất - 1778) ông Vũ Huy Chuẩn sau khi đậu Hương cống về quê vinh quy bái tổ đã cùng con cháu xây dựng gồm 3 tòa và được trùng tu năm Nhâm tý 1852; đến năm 1856, di tích bị Thực dân Pháp đốt phá chỉ còn lại khung nhà trung đường, năm 1891 Tân Mão – Thành Thái 3 con cháu và nhân dân xây dựng lại trên nền đất cũ. Tháng 4/2011 nhà thờ được đưa vào danh mục di tích của UBND tỉnh Nghệ An và giao cho UBND xã Diễn Mỹ trực tiếp quản lý. ( Quyết định số 1017/QĐ-UBND) và đến năm 2012. con cháu và nhân dân quyên góp trùng tu và có quy mô như hiện nay.
Hiện, Nhà thờ họ Vũ Đại tôn ở làng Đông Xương đang thờ rất nhiều các vị tiền nhân dòng họ Vũ đã có công lớn trong lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, lục theo chính sử thì rất ít chính sử nói về công lao của các vị.
Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi, Phóng viên đã tìm hiểu được nhiều những điều hay, điều lạ mà nhà thờ họ Vũ nơi đây đang chứa ẩn.
Ông Vũ Trung Lương, Thuỷ tổ của dòng họ, ông có tên thuỵ là Trung Chất Viết Cương Nghị. Ông là hậu duệ đời thứ 17 của cụ Vũ Hồn ở làng Mộ trạch, Xứ Đông Hải, quận Thái Nguyên (nay là tỉnh Hải Dương). Ông sinh vào năm 1434 (Giáp Dần- niên hiệu Thiệu Bình 1) tại huyện Bồng Báo, phủ Thiệu thiên, xứ Thanh Hoa (Đồng Tân, Vĩnh Trung, Vĩnh Lộc, Thanh Hoá ngày nay).
Cuốn Ngọc phả dòng họ ghi lại công lao của ông Vũ Trung Lương. |
Theo Ngọc phả dòng họ, ông sinh trưởng trong một gia đình thuần nông, chất phác, nhưng nhờ có tư chất thông minh, lanh lợi, nhạy cảm lại rất có năng khiếu võ nghệ, nên từ nhỏ ông đã bộc lộ những phẩm chất hơn người, nhất là trong những lần cùng chúng bạn bày trò đánh trận giả, bao giờ ông cũng được cử làm người chỉ huy.
Sau khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi hoàng đế năm 1460 (Canh Thìn), Để cũng cố thế lực triều đình, vua Lê đã mỡ khoa thi võ đầu tiên gọi là khoa thi Bác Cử nhằm tuyển chọn nhân tài bảo vệ đất nước. Vũ Trung Lương cùng các võ sinh khắp cả nước về kinh thành ứng thí và ông đã đậu Đồng Tạo Sỹ. Về sự kiện này, Gia phả họ Vũ đại tôn chép lại rằng “Thần ở huyện Bồng Báo, Xứ Thanh, gốc họ Vũ, tài sức hơn người, tinh thông võ nghệ. Vào năm Quang Thuận triều Lê thi đậu Đồng Tạo Sỹ”
Lúc bấy giờ, những vùng núi xa cách kinh thành như Sơn Tây, Thái Nguyên, “bọn cướp nổi lên như ong – (Khâm Định Việt sử thông giám cương mục – NXB giáo dục 1998- trang 500)”, nạn thổ phỉ hoành hoành, quan lại tham nhũng, bè đảng, trộm cắp nỗi lên khắp nơi khiến cho nhân dân phải lưu tán trong cảnh hỗn loạn nên triều đình nhà Lê đã cử ông Vũ trung Lương đi trấn giữ vùng Thái Nguyên. Tại đây, với bản lĩnh , ý chí và sự thông minh, giỏi võ nghệ của mình, ông Vũ Trung Lươngđã dẹp yên được loạn, lập nhiều chiến công đem lại cuộc ssống ấm no, ổn định cho nhân dân, góp phần xây dựng quân đội ngày càng thanh thế và mạnh mẽ hơn. Ông được vua Lê phong cho chức Đồng tri Châu trật Tòng bát phẩm. Ông lã một võ quan cương nghị, hiền lành, đức độ, bảo vệ bình an cho nhân dân nên được dân quý mến, cảm phục và tin cậy.
Năm 1467, giặc Chiêm Thành kéo quân sang đánh phá ở phía Nam Đại Việt, nên triều Lê đã huy động nhiều binh sĩ vào đây để tăng cường lực lượng trấn giữ. Ông Vũ Trung Lương cũng đã được triều Lê huy động vào tăng cường lưc lượng tại phía Nam Đại Việt, trưc tiếp là canh giữ vùng đất Cửa Vạn (nay thuộc xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu). Chính những năm tháng làm nhiện vụ canh giữ vùng đất này, ông vừa là một vị quan hết lòng vì việc nước nhưng cũng rất gần gũi với dân chúng, thực hiện chính sách ôn hoà, lấy nhu thắng cương, yêu dân chúng nên được nhân dân hết lòng cảm phục, tin cậy, nên cuộc sống của người dân nơi đây ngày càng được thái bình.
Năm 1469, ông Vũ Trung Lương được vua Lê sắc phong là “Tiền kiệt trung tướng quân hiện hữu hậu, đội trưởng đội Nam hữu, hiệu lệnh tư kỳ Bài tráng sĩ, chức Chánh Võ Uý” trật chánh lục phẩm.
Năm 1470, giặc Chiêm Thành lại kéo quân sang xâm chiếm nước ta, vua Lê Thánh Tông đã thân chinh cầm 20 vạn quân tiến về phương Nam để chinh phạt Chiêm Thành. Ông Vũ Trung Lương một lần nữa cũng được đem theo quân binh gia nhập vào đại quân và đã được vua Lê giao trấn giữ vùng đất Nghệ An để chặn đường tiến của giặc. Không phụ niềm tin cuả triều đình, ông Vũ Trung Lương đem hết tài trí, mưu lược của mình để dàn binh, bố trận, góp công cùng nhà Lê đánh bại giặc Chiêm. Sau thắng lợi này, ông được vua Lê phong chức: Tham đốc, Đại tướng quân trật Tòng nhị phẩm.
Năm 1494 niên hiệu Hồng Đức, Vũ Trung Lương được vua Lê Thánh Tông sắc phong: Đại tướng quân, Tham dốc, Dũng Nghĩa Hầu Vũ tướng công. Và được cấp lộc điền ở Kẻ Trai, phủ Diễn Châu (làng Đông Xương, xã Diễn Mỹ ngày nay) với 300 mẫu ruộng. Vũ Trung Lương đã đưa gia quyến của mình từ đấ Thanh Hoa vào đây để sinh cơ, lập nghiệp. Ông đã tiến hành khai khẩn được nhiều đất hoang, cải tạo thành đất màu mỡ, thau chua, rửa mặn, xây dựng hệ thống nông giang…và xây dựng thành các ấp, trang như: Thoả Ngổ trang ( Quỳnh Diễn ngày nay), Đông Cẩu Thượng trang ( làng Đông Xương ngày nay), Đông Cẩu Hạ trang ( làng Đông Thanh ngày nay)…
Đến năm 1498 ( Mậu Ngọ - Cảnh Thống), ông Vũ Trung Lương đã chia nhỏ các trang thuộc Kẻ Trai thành những ấp, làng. Năm 1499, Vũ Trung Lương về hưu quan tại làng Đông Xương và tiếp tục cùng con cháu dòng họ khai phá thêm nhiều cánh đồng trù phú như: Cánh đồng Lương Quan ( lấy tên ông Vũ Trung Lương), cánh đồng Rộc Xoang, Rộc Dầu, Sác Hoa…
Năm 1510 ( Canh Ngọ), ông Vũ Trung Lương qua đời, hưởng thọ 76 tuổi. Mộ táng tại bản trang xứ Đồng Lương Quan ( Phía Đông dài một trăm bảy thước lẻ, phía Tây dài một trăm ba mươi hai thước lẻ, phía Nam dài hai trăm ba mươi thước lẻ, phía Bắc dài hai trăm mười thước lẻ), toạ quý hướng Đinh, y như trong giấy tờ, gọi đó là núi Mả Tổ.
Hay tin ông mất, vua Lê Tương Dực cử người tiến 200 quan tiền đến phúng viếng người đã có công lao lớn, là bậc khai quốc công thần với triều Lê và giao cho làng Đông Xương phụng thờ. Nhân dân làng Đông Xương đã tôn ông làm phúc thần của làng và xây dựng đền thờ phụng, lấy tên làng đặt cho tên đền gọi là đền Đông Xương. Không những được thờ ở đền là phúc thần vị của làng, ông Vũ Trung Lương cũng đươc con cháu dòng họ Vũ lập ban thờ tại gia đình.
Hoạt cảnh tái hiện lại công lao của ông Vũ Trung Lương. |
Trải qua các triều đại phong kiến đều có sắc phong, phong cho ông nhưng do thời gian, thiên tai và chiến tranh đến nay các sắc phong không còn. Chỉ còn lại một sắc duy nhất của vua Khải Định năm thứ 2( Đinh Tỵ - 1917) phong cho Dũng Nghĩa hầu Vũ Trung Lương, nội sắc như sau:
Sắc cho giáp Trung Đình, làng Đông Xương, tổng Vạn Phần, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An thờ phụng thần Lê triều Tán trị công thần Đặc tiến phụ quốc Tham đốc Dũng Nghĩa hầu Đại tướng quân Vũ tướng công. Thần linh ứng rõ ràng. Cho nên, nay trẫm cả vâng mệnh sáng, xa nghĩ ơn thần, trứ phong là: Dực bảo Trung hưng Linh phù chi thần. Chuẩn cho thờ phụng như cũ, thần hãy ban ơn, che chở và giúp đở cho dân ta.
Vậy sắc!
Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 2( năm 1917)
(Sắc mệnh chi bảo)
Và hiệu bụt của ngài được đặt trên một long ngai cổ, sơn son thiếp vàng và có ghi “Lê triều tán trị khai quốc công thần, đặc tiến phổ quốc Đại tướng quân, Tham đốc, Dũng nghĩa hầu, Vũ Tướng công thuỵ Trung Chất Viết Cương Nghị linh vị”
Bài 2. 11 vị quận công của dòng họ là ai?
Đình Thắng