Vụ án có nhiều người theo dõi
Cần đình chỉ điều tra, trả tự do cho TS doanh nhân Phạm Thanh Hải
Phạm Thanh Hải bị bắt và bị truy tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đến nay đã hơn bốn năm, mà cơ quan điều tra vẫn loay hoay tìm chứng cứ chứng minh tội phạm.
Hơn 4 năm nay những người được coi là bị hại vẫn kiên trì kêu oan cho người "hại mình" |
Muốn truy tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì phải chứng minh được hai yếu tố, đó là có hành vi gian dối (lừa đảo) và hành vi chiếm đoạt tài sản.
Về hành vi gian dối (lừa đảo), trong vụ án này cấp sơ thẩm chủ yếu dựa vào hợp đồng góp vốn giữa các nhà đầ tư với Phạm Thanh Hải để cho rằng Phạm Thanh Hải đã có hành vi gian dối làm cho các nhà đầu tư “nhầm tưởng” là góp vốn cho công ty IDT.
Kết luận này là khiên cưỡng, hay nói đúng hơn là nhằm cố tình khép tội. Bởi vì, hợp đồng đã thể hiện rõ ràng bên B là cá nhân Phạm Thanh Hải, số CMND của Phạm Thanh Hải, địa chỉ bên B là địa chỉ nhà riêng của Phạm Thanh Hải, số điện thoại bên B là số điện thoại của cá nhân Phạm Thanh Hải. Và tất cả các hợp đồng đều ghi nhận các nhà đầu tư đã ủy quyền cho bên B toàn quyền quản lý, sử dụng, khai thác có lợi cho các nhà đầu tư.
Và trên thực tế, trong quá trình đầu tư, Phạm Thanh Hải đã làm đúng như đã cam kết. Cho đến ngày bị bắt oan về tội “kinh doanh trái phép” và bị try tố về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chưa có ai thắc mắc, khiếu kiện.
Vấn đề này đã được thể hiện ngay trong hồ sơ vụ án. Tại bút lục 38, 45 cơ quan điều tra ghi nhận: “Sau khi huy động vốn của nhiều người Hải dùng để đầu tư nhiều dự án, đến kỳ hạn trả tiền thì Hải căn cứ hợp đồng để trả tiền lại cho khách, đến nay Hải vẫn trả đầy đủ tiền cho khách theo hợp đồng (chưa có khách hàng nào thắc mắc, khiếu kiện).” (BL 38, 45).
Tại bản án phúc thẩm, cấp phúc thẩm – Tòa án cấp cao tại Hà Nội, cũng nhận định như sau: “Bởi vì, căn cứ các hợp đồng thì bị cáo Hải huy động vốn với tư cách cá nhân, hợp đồng thể hiện bị cáo được toàn quyền quản lý, sử dụng, quyết định khai thác có lợi nhất số tiền do các nhà đầu tư góp và thực tế bị cáo có đầu tư vào nhiều dự án, các dự án đang trên đà phát triển.” (trang 22 bản án phúc thẩm). Đây là nhận định chính xác, khách quan dựa trên những gì hồ sơ vụ án thể hiện.
Như vậy, trong vụ án này về hành vi gian dối (lừa đảo) là không có. Vậy, cơ quan điều tra đang tìm kiếm cái gì mà không ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án?
Về hành vi chiếm đoạt tài sản. Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi chiếm đoạt tài sản được biểu hiện khi có các dấu hiệu sau: Đến thời hạn trả lại tài sản nhưng bị cáo không trả, bị hại đòi nhiều lần nhưng bị cáo không trả, cố tình lẩn tránh (như không cho gặp, không nghe điện thoại, tắt máy, không trả lời tin nhắn…), tuyên bố vỡ nợ, bỏ trốn hoặc có dấu hiệu bỏ trốn…
Cho đến ngày bị bắt oan về tội “kinh doanh trái phép”, Phạm Thanh Hải đã huy động vốn và kinh doanh được tám năm (từ 2008 – 10/2014). Trong quá trình huy động vốn và kinh doanh, Phạm Thanh Hải luôn giữ đúng lời cam kết trong các hợp đồng với các nhà đầu tư. Nghĩa là luôn thanh toán cả vốn và lãi đúng hạn.
Thậm chí, nếu nhà đầu tư nào đó đến hạn nhưng chưa kịp đến thanh toán thì Phạm Thanh Hải gọi điện hoặc nhờ người gọi điện thoại mời đến nhận tiền đúng hạn. Do tất cả các hợp đồng trong giai đoạn huy động vốn và đầu tư từ năm 2008 đến tháng 10/2014 đã được tất toán nên cơ quan điều tra đã tách ra không xem xét đến.
Nghĩa là, cũng bằng hình thức đó, cũng những hợp đồng đó nhưng trong giai đoạn này các nhà đầu tư không “lầm tưởng”, Phạm Thanh Hải không lừa dối ai, không chiếm đoạt của ai! Ngược lại, dù đã thanh toán hết các khoản nợ, nhưng Phạm Thanh Hải vẫn còn số tiền đang đầu tư tại 16 công ty là 354 tỷ đồng (BL 53663- trong BL này cơ quan điều tra cộng nhầm thành 339 tỷ).
Công việc đang tiến triển theo chiều hướng tốt đẹp, thì đùng một cái Phạm Thanh Hải bị bắt oan về tội “kinh doanh trái phép” nhưng lại truy tố về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mặc dù không có ai tố cáo hay thắc mắc, khiếu kiện.
Bức thư gửi Tòa soạn của một người "bị hại" |
Căn cứ vào hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời khai của các nhà đầu tư, cũng như Phạm Thanh Hải đã nhiều lần khẳng định trước tòa, trong quá trình kinh doanh cho đến ngày bị bắt oan (19/10/2015) Phạm Thanh Hải không nợ quá hạn đối với bất kỳ ai. Những người chưa được thanh toán là do hợp đồng của họ chưa đến hạn thanh toán thì P.T. Hải đã bị bắt oan. Hợp đồng của những người này có thời hạn thanh toán rải rác trong năm 2016.
Vì vậy, việc cơ quan điều tra đưa tất cả những người này vào danh sách những người bị hại là sai, là cố tình buộc tội oan cho người vô tội. Tại bản án phúc thẩm - Tòa án cấp cao tại Hà Nội đã nhận định: “Cấp sơ thẩm xác định những người tham gia tố tụng chưa rõ ràng, chưa phân định rõ những hợp đồng nào đã hết hạn, hợp đồng nào tiếp tục, hoặc chưa hết hạn…”.
Như vậy, việc xác định bị hại cần phải căn cứ vào việc thực tế họ đã bị chiếm đoạt hay chưa? Bị cáo có dấu hiệu trốn nợ hay không, có đủ khả năng thanh toán hay không? Nếu căn cứ theo những yếu tố này thì rõ ràng trong vụ án này không có bị hại!
Tất cả các hợp đồng đã được thu thập đầy đủ trong hồ sơ, tất cả đều cho thấy những hợp đồng này có thời hạn thanh toán sau ngày Phạm Thanh Hải bị bắt oan, nghĩa là không có bị hại. Vậy cơ quan điều tra đang loay hoay tìm kiếm cái gì mà không đình chỉ điều tra để trả tự do cho Phạm Thanh Hải? Phạm Thanh Hải bị bắt tạm giam đã gần 5 năm vì không có đủ căn cứ để khép tội đã làm thiệt hại nặng nề đối với nhiều doanh nghiệp và gần ba ngàn gia đình nhà đầu tư./.
LS Lê Xuân Thức