Trung tướng Tiêu Văn Mẫn:
Kỳ 2: Điểm tựa “hậu phương” vững chắc
Trở thành Trung tướng QĐND Việt Nam từ một anh lính trơn là cả một quá trình phấn đấu không ngừng của ông. Nhưng có được thành tích ấy còn có cả sự góp sức của “Hậu phương” vững chắc phía sau ông.
“Hậu phương” ấy là bác sĩ Đỗ Xuân Hồng. Bà sinh ra trong một gia giáo, giàu truyền thống cách mạng quê Nam Hồng, Đông Anh, Hà Nội. Từ bé bà đã sớm hấp thu nền nếp của gia đình nên năm 13 tuổi, bà là một cô bé giao liên, góp phần nhỏ bé tham gia kháng chiến, gìn giữ hòa bình. Thời kỳ phong trào TNXP trong cả nước diễn ra sôi nổi, bà đã gác lại giấc mơ đèn sách để đi TNXP làm đường sắt ở Thái Nguyên khi tuổi vừa tròn 18. Khi đường sắt hoàn thành, bà tiếp tục đi TNXP vào tận chiến trường miền Nam dọn dẹp đường sá. Sau 5 năm tham gia TNXP, bà trở về Hà Nội theo học lớp y sỹ, tham gia cứu chữa cho thương bệnh binh và dân quân. Rời chiến trường, bà trở lại hậu phương tiếp tục chăm sóc sức khỏe cho nhân dân với vị trí là trưởng trạm y tế xã Nam Hồng.
Trung tướng Tiêu Văn Mẫn và vợ Đỗ Xuân Hồng |
Hai ông bà cưới nhau năm 1961. Cưới xong hai người chỉ ở bên nhau có một tuần, ông phải trở về đơn vị tiếp tục sự nghiệp cách mạng. Ông thấy cuộc đời mình may mắn khi lấy được người vợ “chiến binh”. Bà đã dũng cảm đến với một anh lính tập kết nghèo kiết xác, không tiền, không nhà, cuộc sống sống may đây mai đó, đâu cũng là quê hương.
Lấy nhau, hai vợ chồng không có một mảnh đất cắm dùi, lúc đầu phải tá túc tạm ở nhà bố mẹ vợ, rồi được gia đình vợ cho mảnh vườn để dựng tam căn nhà tranh để ở. Sau này ông về hưu, gia đình ông mới được đơn vị phân cho mảnh đất ở KTT quân đội Nam Đồng (Đống Đa) để xây nhà.
Trước khi lên đường chiến đấu, không có thời gian về thăm nhà nên ông nhắn vợ xuống đơn vị để gặp và gửi cho vợ bộ quần áo lính ông thường mặc. Ông muốn gửi bộ quần áo đó như kỷ vật, bởi “đi B” rất ác liệt, không biết sống chết thế nào. Bà đã giữ bộ quần áo của ông như một kỷ vật thiêng liêng. 8 năm ở chiến trường, ông không một lần thăm nhà cũng không thư từ. Mỗi lúc nhớ chồng, bà thường mang bộ quần áo của chồng ra nâng niu, ngắm ngía. Sau này, khi ông ở chiến trường trở ra, thấy bộ quần áo vẫn còn thơm nếp gấp.
Thật cảm động khi ông đi đánh giặc biền biệt gần chục năm trời, không có tin tức gì nhưng bà Hồng ở quê nhà luôn chung thủy một lòng, đợi chờ mòn mỏi với niềm tin sắt đá rằng chồng sẽ trở về... Niềm tin đó đã biến thành sức mạnh cho người tiền tuyến cũng như người hậu phương, nâng bước chân và tâm hồn của họ bước qua cuộc chiến khốc liệt, giành chiến thắng.
Vợ chồng Trung tướng Tiêu Văn Mẫn hạnh phúc bên các con trai, gái,dâu, rể |
Bà Hồng bùi ngùi nhớ lại: Ngày ông đi chiến trường, đứa lớn chỉ mới chập chững biết đi, đứa nhỏ còn trong bụng mẹ chưa sinh. Ngày ông trở ra, con trai lớn cũng đã lên 10, đứa con gái sau lên 8 lần đầu tiên mới biết mặt cha. Sau đó, vợ chồng có thêm 2 cô con gái nữa nhưng ông lại tiếp tục con đường binh nghiệp, để lại quê nhà cho vợ một nách 4 đứa con thơ.
Ngày đó, trạm xá neo người, ngày bà đi làm, đêm còn phải đi trực. Các con lớn bà gửi người thân trông nom, còn đứa nhỏ bà thường mang theo đi trực. Lúc nào bà tất bật ngược xuôi, trên chiếc xe đạp cà tàng bao giờ cũng có cái ghế đằng trước để đèo con, bất kể ngày mưa bão hay gió rét. Thậm chí, lúc sinh đứa con trai đầu lòng, chỉ mới được 1 tháng tuổi còn đỏ hỏn trên tay nhưng bà cũng phải đĩu con đi trực đêm. Có lần bà đi trực đêm mang cậu con trai mới 2 tuổi đi cùng, mải làm việc không để mắt được đến con, bé nghịch bếp điện suýt mất mạng khiến bà hồn vía lên mây.
Những lần mưa bão, nhà cửa dột nát, các con nằm ngủ nước mưa chảy ướt sũng cả người, bà thương con chỉ biết ngồi khóc, chờ trời sáng bắc thang leo lên mái nhà để vá víu che cho các con đỡ bị mưa dột. Rồi những hôm bà bận việc về muộn, con ở nhà đứa thì đói, đứa khát sữa, khóc khản cả cổ, về đến nhà thấy con khóc, mẹ cũng khóc theo. Nhiều hôm trái gió trở trời, con cái ốm đau mà không có chồng bên cạnh đỡ đần, chia sẻ…Bà vừa làm mẹ, vừa làm cha của các con, thay ông gánh vác việc gia đình.
Những lúc khó khăn, túng thiếu, một mình bà vừa phải chạy đôn chạy đáo để lo cái ăn cho 4 đứa con ăn học, vừa phải hoàn thành nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở trạm xá. Ngày đó lương của bà rất thấp, còn phụ cấp của chồng thì ít ỏi, thỉnh thoảng cô phụ trách chính sách ở huyện mới lấy về cho nên không đủ trang trải cuộc sống. Bà phải tổ chức cho các con làm thêm, nhận hàng may gia công về cho con gái lớn vừa đi học vừa làm thêm. Còn bà còn tham gia tổ đan len của chị em địa phương, nuôi lợn, trồng rau để có thêm thu nhập cho các con ăn học. Vất vả là vậy nhưng bà vẫn tranh thủ đi học thêm Đại học, trở thành một bác sĩ sản khoa để có thể giúp đỡ những ca đẻ khó, những căn bệnh phụ khoa phức tạp của chị em. Tuy bận rộn nhưng bà vẫn hăng hái tham gia phụ trách công tác đoàn, phụ trách chi bộ Đảng ở địa phương. 37 năm làm công tác trưởng trạm y tế, bà luôn phấn đấu vì sức khỏe của nhân dân. Bà vinh dự được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất, hạng 2, và nhiều Huy chương, kỷ niệm chương, Bằng khen cao quý khác.
Cuộc đời làm vợ lính vất vả là vậy nhưng bà không một lời trách móc chồng mà bà tự động viên mình phải kiên cường để chăm sóc, nuôi dạy các con khôn lớn, làm điểm tựa tinh thần vững chãi để chồng yên tâm chiến đấu, hoàn thành tốt công tác. Bà là hình ảnh của các thế hệ phụ nữ Việt Nam tần tảo, một lòng thủy chung, kiên cường, giàu đức hy sinh, chịu thương chịu khó, yêu chồng, thương con. Dù cuộc sống có khó khăn, vất vả, họ đều cố gắng vượt qua.
Nguyễn Đài Thanh