Kỷ niệm 75 năm thành lập QĐNDVN và 30 năm ngày Hội quốc phòng toàn dân 22/12
Phạm Xuân Ẩn - con người của huyền thoại (kỳ III)
Trong chiến tranh, một trong những đồng nghiệp của tôi nói với tôi: “Tôi nghĩ Phạm Xuân Ẩn là điển hình hoàn hảo tốt đẹp nhất trong xã hội Việt Nam”.
Xung quanh ông là cả một rừng huyền thoại.
Hành trình chui sâu leo cao
Trần Văn Trung là tên thật của ông, mọi người thường gọi là Hai Trung. Ông sinh năm 1927 tại xã Bình Trước, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong gia đình một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa. Quê gốc của ông ở Hải Dương, gia đình ông chuyển đến sống tại Huế khi cụ nội của ông là nghệ nhân kim hoàn được gọi vào Kinh đô để chế tác đồ vàng bạc cho triều đình.
Hết chiến tranh ông trở về với đời thường bình dị |
Ông nội của Phạm Xuân Ẩn là hiệu trưởng một trường nữ sinh ở Huế, đã được vua ban kim khánh. Cha của ông là một kỹ sư cao cấp tại Sở Công chánh, làm công tác trắc địa trên khắp miền Nam. Tương truyền, ông được sinh tại Nhà thương điên Biên Hòa, do chính các bác sĩ người Pháp đỡ đẻ. Tuy là một viên chức cao cấp, nhưng cha của ông không nhập quốc tịch Pháp.
Thời niên thiếu, ông sống tại Sài Gòn, sau chuyển về Cần Thơ học trường College de Cần Thơ. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông bỏ học và tham gia tổ chức Thanh niên Tiền Phong, sau đó học một khóa huấn luyện của Việt Minh về công tác tuyên truyền.
Năm 1947, ông trở về Sài Gòn để chăm sóc thân phụ đang bệnh nặng. Ông làm thư ký cho công ty dầu lửa Caltex. Năm 1950, ông vào làm ở Sở thuế quan Sài Gòn. Tại đây ông tham gia các cuộc biểu tình chống Pháp của học sinh, sinh viên. Thực chất lúc này ông được Việt Minh giao nhiệm vụ tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa, khí tài quân sự và các đơn vị quân đội từ Pháp sang Việt Nam và từ Việt Nam về Pháp.
Năm 1952, ông ra Chiến khu D và được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - ủy viên Ủy ban hành chánh kháng chiến Nam Bộ - giao nhiệm vụ tình báo chiến lược. Trở về Sài Gòn ông đổi tên thành Phạm Xuân Ẩn. Năm 1953 tại rạch Cái Bát, Cà Mau trong rừng U Minh, Phạm Xuân Ẩn được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vợ chồng điệp viên Phạm Xuân Ẩn |
Năm 1954, chính quyền Sài Gòn gọi Phạm Xuân Ẩn nhập ngũ và được trưng dụng làm bí thư phòng Chiến tranh tâm lý thuộc Bộ Tổng hành dinh quân đội Liên hiệp Pháp tại Camp Aux Mares (thành Ô Ma). Chính tại đây, ông đã quen biết với Đại tá Edward Lansdale, người chỉ huy CIA tại Đông Dương cũng là trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG) ở Sài Gòn.
Năm 1955 theo đề nghị của phái bộ cố vấn quân sự Mỹ (lúc này đã chính thức thay Pháp đứng ra huấn luyện và xây dựng Quân lực Việt Nam cộng hòa), Phạm Xuân Ẩn tham gia soạn thảo các tài liệu về tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội.
Ông cũng tham gia thành lập bộ khung của 6 sư đoàn bộ binh đầu tiên của Quân lực Việt Nam cộng hòa mà nòng cốt là sĩ quan, hạ sĩ quan, binh lính người Việt trong quân đội Liên hiệp Pháp trước đây. Tháng 10 năm 1957, theo sự chỉ đạo “chui sâu, leo cao” của Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương (Mười Hương), Phạm Xuân Ẩn sang Mỹ học ngành báo chí.
Tung hoành giữa Sài Gòn
Tháng 10 năm 1959, Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ những mối quan hệ xây dựng từ trước, ông được Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Văn hóa Xã hội (thực chất là cơ quan mật vụ trực thuộc Phủ Tổng thống), biệt phái sang làm việc tại Việt tấn xã phụ trách quản lý phóng viên ngoại quốc làm việc tại đây. Từ năm 1960 đến giữa năm 1964, ông làm cho hãng thông tấn Reuters. Từ năm 1965 đến năm 1976 ông là phóng viên người Việt chính thức duy nhất của tuần báo Time, ngoài ra ông còn là cộng tác viên của các tờ báo khác như The Christian Science Monitor”
Từ khi ở Mỹ về nước cho đến năm 1975, với vỏ bọc là phóng viên, nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao cấp, các nhân viên tình báo, an ninh quân đội và “người của CIA”, Phạm Xuân Ẩn đã có được mọi nguồn tin tức quan trọng từ quân đội, cảnh sát và cơ quan tình báo.
Ngày 30/4/1975, Phạm Xuân Ẩn là một trong những nhà báo chứng kiến sự kiện xe tăng của quân đội nhân dân Việt Nam húc đổ cổng dinh Độc Lập. Đến thời điểm đó cũng như một vài tháng sau, các đồng nghiệp phóng viên và những người thuộc chính quyền cũ cũng như chính quyền mới vẫn chưa biết ông là một điệp viên Cộng sản. Khi đó vợ con của ông đã rời khỏi Việt Nam theo chính sách sơ tán của Mỹ, theo kế hoạch, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động tình báo. Tuy nhiên, kế hoạch thay đổi, vợ con ông đã phải mất một năm để quay lại Việt Nam theo đường vòng: Paris - Moskva - Hà Nội - Sài Gòn.
Với Hai Trung, hơn 20 năm trong vai phóng viên của các tờ báo lớn nước ngoài như: hãng thông tấn Reuters, tuần báo Times, nhật báo New York Herald Tribune, nhật báo The Chritian Science Monitor cũng là thời gian ông là nhà tình báo chiến lược xuất sắc thu thập và gửi về căn cứ 498 báo cáo toàn tài liệu nguyên gốc được sao chụp, phân tích nhiều thông tin quý báu về chiến lược, chiến thuật của đối phương - những thông tin vô cùng hữu ích cho công cuộc giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Những tin tức quý báu của ông giúp Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến dịch mùa xuân 1975 |
Làm báo và làm tình báo, hai nhiệm vụ ấy đã hỗ trợ cho nhau tạo thành sức mạnh hết sức lợi hại và to lớn đối với Phạm Xuân Ẩn. Có điều kiện đi và tiếp xúc nhiều, ông nắm được những thông tin cơ mật ngay trong đầu não của đối phương, giúp các cơ quan đầu não của ta đề ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời.
Trước năm 1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương rất băn khoăn đứng trước câu hỏi lớn và cần phải có lời giải đáp - “liệu ta mở cuộc Tổng tấn công, Mỹ có quay lại không?”. Đại tướng Hoàng Văn Thái nhớ lại: Lúc đó, có 3 nhiệm vụ lớn đặt ra cho Bộ Quốc phòng. Một trong số đó là giải đáp ẩn số: khả năng can thiệp của Mỹ thế nào khi ta đánh lớn và ngụy quân, ngụy quyền đứng trước nguy cơ sụp đổ?
Câu hỏi hóc búa này được lực lượng tình báo triển khai đến các mạng lưới và Phạm Xuân Ẩn là người đã giải mã chính xác, xuất sắc: “Mỹ dứt khoát không đưa quân trở lại miền Nam”. Nguồn thông tin này kết hợp với những nguồn khác đã giúp Trung ương đề ra quyết tâm chiến lược “Giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Sau này ông được tặng thưởng huân chương cao quý vì câu trả lời ấy.
Lô Giang