GS. TSKH Nguyễn Hàm Dương
Nhà ngôn ngữ học - Người chiến sĩ
Sắp đến ngày thành lập QĐND, ngày Toàn quốc kháng chiến, và kỷ niệm thầy 90 tuổi, tôi nhớ thầy Nguyễn Hàm Dương – người cựu chiến binh thời chống Pháp, Nhà khoa học, Nhà giáo Ưu tú hào hoa và nhân hậu. Được sống bên thầy 3 năm hồi trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán ở Việt Bắc (1965-1968), tôi có nhiều kỷ niệm vui với thầy...
GS Nguyễn Hàm Dương |
Ngành Ngôn ngữ học ở Đại học Tổng hợp Hà Nội vinh dự có 5 cựu chiến binh của cuộc kháng chiến lần thứ nhất, tình cờ các thầy lại có mặt rộng khắp trên chiến trường cả nước: GS Phan Ngọc & GS Nguyễn Cao Đàm ở Việt Bắc, GS Cao Xuân Hạo ở Bình Trị Thiên, GS Nguyễn Lai ở Liên khu V và GS Nguyễn Hàm Dương ở bưng biền Nam bộ. GS Nguyễn Hàm Dương tuổi Canh Ngọ, thầy đi xa đến nay đã gần 30 năm nhưng hình ảnh của thầy là hình ảnh của một chiến sĩ cầm súng trở thành trí thức, nhà khoa học luôn hiện hữu trong tôi, thế hệ học trò đầu tiên của thầy.
Gần 60 năm trước, cuối thu năm 1963, hồi đó khoa Ngữ Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội tọa lạc ở gần chùa Láng (nay là thổ cư của hai trường Đại học Ngoại thương và Ngoại giao). Một chiều, sinh viên chúng tôi thấy các thầy trong bộ môn Ngôn ngữ học vừa tan cuộc họp bước ra, trong số đó có một người lạ trông rất “ấn tượng”, to cao, dáng rất tây, ăn vận sang trọng, tay dắt một chiếc xe máy Jawa màu đỏ mà thuở đó rất hiếm hoi. Thầy Nguyễn Cao Đàm nói với sinh viên năm thứ ba chúng tôi đó là thầy Nguyễn Hàm Dương, bạn đồng môn của thầy, vừa đỗ PTS Ngôn ngữ học ở Đại học Lomonosov về. Chúng tôi thấy giữa thầy và mình có cả một khoảng cách xa vời về học vấn và nếp sống. Lâu lâu chúng tôi lại thấy bóng thầy trong khoa nhưng không có cơ hội tiếp xúc nên cái khoảng cách ấy dường như lại tăng lên.
Một năm sau, năm thứ tư, chúng tôi được học với thầy. Lớp chúng tôi sôi nổi hẳn lên khi có hai thầy giáo mới, với hai tính cách khác nhau nhưng có chung một phát ngôn. Thầy Trần Đình Hượu với cốt cách một nhà nho xứ Nghệ nói: “Xưa tôi dạy trung học ở Nghệ, nay nhà nước cho đi học về dạy đại học là cả một sự cố gắng lớn”. Khiêm tốn là vậy nhưng thầy đã làm say mê chúng tôi cả hệ thống lịch sử tư tưởng Trung quốc cổ điển. Còn thầy Nguyễn Hàm Dương thì nói: “Trước đây mình là bộ đội, cầm súng đánh Pháp, được đi học, nay về dạy đại học, mong nhận được sự cảm thông và hợp tác của các bạn”.
Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên vì tác phong giản dị và gần gũi của thầy. Mỗi giờ giải lao thầy chia sẻ với chúng tôi chén nước chè, điếu thuốc, cái kẹo vừng. Tác phong của thầy rất sang trọng nhưng chất người lính vẫn được thầy gìn giữ trong giờ giảng: nói rất đơn giản, đi ngay vào vấn đề, biểu thị chính kiến, phê bình sinh viên thẳng thắn và chân thành, xong việc là cho qua. Thầy đùa chúng tôi: “Mình là người Việt ở nước Tần”. Chúng tôi không hiểu. Thầy giải thích: “Mình họ Nguyễn, chắc chắn là người Việt, còn tên là Hàm Dương, chính thị là kinh đô nước Tần”. Chúng tôi cười. Khoảng cách thầy trò cứ thế lấp dần rồi trở nên thân thiết.
Thầy trao cho chúng tôi những kiến thức ngôn ngữ học đại cương và ứng dụng đầu đời, rất mới, mà đến nay, mấy chục năm sau, tôi vẫn tiếp tục dùng. Qua thầy, chúng tôi học được Ngôn ngữ học cấu trúc lúc thịnh thời với các tên tuổi từ Bloomfield đến Harris, từ Hjelmslev đến Jakobson. Lần đầu tiên tôi nghe đến tên của N.Chomsky từ bài giảng của thầy, khi đó Chomsky mới xuất hiện trước đó 7 năm (1957) với “Các cấu trúc cú pháp”. Thầy Hàm Dương cũng là người đầu tiên cung cấp cho chúng tôi những hiểu biết về Ngôn ngữ học và thông tin qua công trình của Malmberg, Ngôn ngữ học và điều khiển học với các sách của Wiener, Shannon, Esbi,... đầy xa lạ. Ngày sau này, khi lên lớp cho sinh viên học phần “Ngôn ngữ - truyền thông” tôi không khỏi bồi hồi nhớ lại câu chuyện thuở ấy.
Năm 1965, chúng tôi ra trường giữa lúc chiến tranh ác liệt. Ngày 10/10/1965, là giáo viên trẻ vừa được ở lại khoa Ngữ Văn, tôi theo đoàn quân của Khoa trở lại núi rừng Việt Bắc. Lên một chuyến xe ca nguỵ trang, rời thành phố lúc tinh mơ. Tôi ngồi cạnh thầy Hàm Dương, thầy đã trở lại nguyên mẫu anh bộ đội cụ Hồ, áo quần màu cỏ úa, dép cao su, ba lô, bi đông nước, bao gạo. Xe chạy qua cầu Long Biên, thầy ngậm ngùi nói: “Mười chín năm trước, trung đoàn Thủ đô rút khỏi đây, hôm nay tớ với cậu lại ra đi. Tạm biệt Hà Nội, tạm thời thôi, ta phải sớm trở về. Nói thế nhưng rồi vẫn phải lo trường kỳ đấy”. Đúng là nhận xét của một người lính qua trận mạc. “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”( Nguyến Đình Thi) , nhưng tôi vẫn ngoảnh lại để nhớ Hà Nội “dáng kiều thơm”!
Đặt ba lô xuống Việt Bắc. Thu rồi. Nhớ Văn Cao:” Thu. Thu, bến nắng vàng từng nhà mờ biếc một màu khói thu!”. Tháng mười. Lội qua con suối lớn, nước đã hơi lạnh. Tôi vác cái chăn bông theo thầy vào bản Hưng Đạo. Ở rừng núi Đại Từ, Thái Nguyên, thầy Hàm Dương, thầy Đoàn Thiện Thuật và tôi được khoa xếp ở chung với nhau (hai thầy, một trò) trong nhà một bác nông dân cùng tuổi thầy Dương. Chúng tôi được bác chủ nhà tốt bụng nhường cho hai gian nhà tre mới, có điều, ba bề trống trải, không có tường vách. Tôi ái ngại. Chưa kịp băn khoăn thì tối hôm đó thầy Dương họp ba anh em và nói: Ta bắt đầu cuộc sông mới thôi, có lẽ lâu đấy nên không được tạm bợ, phải tổ chức như quân sự để hợp với thời chiến và phải nhanh chóng để còn làm việc. Thầy bảo, như đời lính, nay lập ra tổ ba người lấy một tên chung là Dương Đức Thuật (với cái hòm thư thời chiến của khoa: T104/ E- BC 11C).
Mờ sáng hôm sau, tôi còn mơ ngủ trong khí lạnh của núi thì thầy Dương đã dựng dậy, mượn về đưa cho mỗi người một con dao quắm. Thầy nai nịt đeo dao, theo ông chủ nhà dẫn chúng tôi leo lên dốc núi cao vút rồi chui vào rừng cách nhà khoảng bảy cây số. Tôi mới nghe rừng chứ chưa vào rừng bao giờ, nay leo lên núi dốc rồi luồn rừng đến nơi đã thấy mệt vã dù đang tuổi thanh niên. Thầy Dương đi thản nhiên, vừa hút thuốc vừa tán chuyện. Thầy dạy tôi cách chém tre, chặt nứa, chặt cây, bó thế nào cho chặt. Lại bảo cách bắt những con vắt bám vào người. Xế chiều, chúng tôi đói mệt trở về, thầy đi trước, vác bó cây dài, luồn rừng, dốc nhanh thoăn thoắt, chả mấy chốc thầy đã bỏ tôi khá xa, đến cái dốc sâu gần nhà tôi đã thấy thầy ngồi nghỉ đợi chúng tôi, thản nhiên, vui vẻ ngồi hút thuốc ăn trái bứa vừa hái.
Trong một nửa tháng liền, thầy chỉ huy chúng tôi làm nhà, trát vách, sửa giường, bàn ghế, đi củi để nấu ăn. Có chỗ ấm, tối tối thầy bảo tôi chong đèn đọc sách cạnh bàn thầy. Rồi thầy bắt tăng gia. Thầy mượn đất của bác chủ, tổ chức cuốc đất, trồng rau. Khó nhất là phân bón. Tôi lại băn khoăn. Thầy bảo: Có khó gì đâu, ở đây mình thấy trâu bò chăn ở dọc chân núi khá nhiều, đó là nguồn phân bón. Nói rồi thầy làm ba bộ quang gánh và giao hẹn, mỗi người phải nhặt được mấy gánh phân. Thầy làm trước. Chiều chiều ven núi tôi quẩy gánh theo thầy dọc triền núi, nhặt phân trâu bò sau các bãi đồi mua, đồi sim, thầy trò mỗi người nhặt đầy gánh.
Thấy tôi còn trẻ nhặt phân có vẻ ngượng, thầy hiểu và bảo: “Cậu đừng ngại, không phải vì đi nhặt phân mà sau này không lấy được vợ đâu. Bên tây, lúc khan thuốc lá người ta còn quấn phân ngựa khô để hút”. Ít lâu sau mảnh vườn của nhóm chúng tôi xanh tốt, rau nhiều vô kể, dân cũng ngạc nhiên, thấy các thầy miền xuôi đủ ăn, có rau, có vịt, có trứng. Cuộc sống của chúng tôi rất ổn định, có thể ngồi yên để đọc sách và giảng dạy. Ba năm sống gần thầy Dương, thầy Thuật trong cùng một nhà, tôi học được nhiều điều: tính kỷ luật của một người lính, tính cẩn thận của một công chức, cách ứng xử tế nhị của người trí thức và cách ăn mặc… có phong cách ngay cả trong lúc còn nghèo khó và chưa lành lặn. Gần thầy, “thong dong mới kể sự ngày hàn vi”, tôi mới được biết cuộc đời người lính của thầy qua từng đoạn thầy kể trong mấy năm bên thầy.
Quê thầy ở ngoại thành Nam Định trong một gia đình nghèo, đang học năm cuối Thành chung thì Cách mạng tháng Tám thành công. Hai tháng sau, mới 16 tuổi thầy bỏ học xung phong vào đoàn quân Nam tiến của tỉnh đi tàu vào Nam đánh giặc. Đại đội của thầy tham chiến ở Nam Trung bộ. Khi mặt trận bị vỡ, tiểu đội thầy dạt qua Tây nguyên sang Lào chiến đấu cùng bộ đội Pathet Lào. Tháng 3/1946, mặt trận Lào lại vỡ, trong vòng vây của Pháp thầy ôm cây chuối cùng các chiến sĩ Lào bơi qua sông Cửu Long theo đội quân của Hoàng thân Xuphanuvong sang Thái. Đói rét trên đất Thái Lan, thầy bắt liên lạc được với hoạt động Hải ngoại của Đảng do nhà cách mạng Nguyễn Đức Quỳ phụ trách. Thầy được giao đóng vai đi buôn hàng để tìm mua vũ khí cho cách mạng. Thầy kể: Mình cũng quê thôi, còn biết ăn vận đúng mốt là nhờ công việc này ở Bangkok. Năm 1947, phái hữu Thái lên cầm quyền, đàn áp cách mạng.
Thầy bị bắt giam và tù. Bốn tháng sau, Đảng cứu thoát và đưa nhóm vào hoạt động bí mật. Thầy rời khỏi Thái Lan bắt đầu cuộc hành trình nguy hiểm mới: Tham gia vận chuyển qua biển các vũ khí mua được ở Thái Lan về rừng U Minh ở Cà Mau. Có thể nói thầy thuộc thế hệ chiến sỹ đầu tiên của tuyến đường trên biển Tây. Hai năm liền đi biển trên những chiếc thuyền không số, lúc giả đánh cá, lúc giả đi buôn để vận chuyển súng đạn. Thầy bao lần đối mặt với gian nguy trên biển, với giặc, nhiều lúc tưởng khó thoát hiểm. Thầy đã là một trong những chiến sỹ đầu tiên của đường dây vũ khí về Khu Chín. Năm 1949 thầy được kết nạp vào Đảng và điều về Khu Tám chiến đấu trong đoàn quân của ông Phan Trọng Tuệ. Lặn lội bưng biền suốt ba năm, đến năm 1952 thầy được điều động lên miền Đông Nam bộ. Khác với bưng biền, rừng miền Đông thiếu gạo, thiếu thuốc, bệnh sốt rét liên miên, đói khát, ăn củ rừng ngày tháng.
Thầy Hàm Dương rất thích bài hát Nam bộ kháng chiến của Tạ Thanh Sơn và bài Nhạc rừng của Hoàng Việt, theo thầy đúng là “Miền đông gian lao và anh dũng”. Ở miền Đông, thầy có một tình bạn rất thân thiết với hai người bạn là nhà viết kịch, đạo diễn Ngô Y Linh và nhà thơ Xuân Miễn. Hiệp định Gienever được ký. Thầy rời rừng miền Đông về Ban Liên hiệp đình chiến ở Phụng hiệp và Sa đéc, biết tiếng Pháp, thầy đi tham gia đấu tranh thi hành hiệp định với Tây trong hàm đại đội trưởng. Thầy xin ở lại miền Nam hoạt động, nhưng trên quyết định thầy phải đi tập kết vì đã bị lộ. Từ chiến trường ra Bắc, thầy được chọn cử đi học ở Liên xô. 24 tuổi, chưa tốt nghiệp phổ thông, thầy phải học lại chương trình bổ túc cấp ba của Nga, rồi mới được vào đại học. Thầy kể nhiều chuyện vui ở Liên Xô vì thầy có óc hài hước. Thầy nhảy rất giỏi. Cho tôi xem tấm ảnh thầy ngồi bên hai cô đầm trên bãi cỏ, thầy bảo: “Bạn nhảy của mình đấy. Một cô người Pháp, có dịp nói tiếng Pháp rất thích. Sứ quán nghiêm cấm, nhưng mình cứ nhảy chui. Anh em biết nhưng quý mình nên lờ đi. Hồi đi biển chở vũ khí, mấy em giao liên bên Thái dạy mình nhảy nên mê mà’! Ở bên thầy thời chiến, có lúc hầu rượu, có lúc nằm chung chăn đêm lạnh giá, thầy kể bao nhiêu chuyện.
Thầy chê tôi không uống được rượu. Chê cả thầy Thuật nữa. Thỉnh thoảng kiếm được mồi, thầy mua rượu của ông Phụng bên hàng xóm về nhắm. Tôi đưa cay hai chén là say, lăn ra ngủ. Thầy uống tiếp một mình, cho mâm xuống gầm giường, hôm sau bắt tôi rửa bát! Thầy có biệt tài nấu ăn và trang trí nhà cửa. Hễ có liên hoan là thầy nhận làm đầu bếp. Lần bên Đại học Sư phạm Việt Bắc, tặng con dê, thầy đến nhà thầy Cẩn làm bảy món cực ngon. Một lần thầy Tu có cân mỳ ống và một lạng bơ cô em thầy biếu. Không biết làm gì, thầy mang đến nhà tôi nhờ thầy Dương. Thầy vui vẻ, chỉ một lúc thầy luộc mỳ, trộn bơ, magi, đường, chanh ớt là có mấy đĩa rất tuyệt. Lần đầu tiên tôi biết khái niệm Spagheti (không thịt bò)! Năm 1971 đi chống lụt ở Đông Anh, thầy Quán ( Hán Nôm) mát tay đánh lưới được cả yến cá mang về. Thầy Dương bảo anh em làm sạch cá rồi thầy suốt buổi chiều nướng, kho, nấu riêu,... hai mâm nhậu xuýt xoa, khen hết lời. Tôi kể một chuyện nhỏ: Một lần, thầy Dương đưa cho tôi tập giấy có hai chương viết tay bản dịch từ tiếng Anh trong cuốn: “ Language and Human Communication” (Ngôn ngữ và thông tin giao tiếp nhân loại) của B.Malmberg. Tôi đọc xong rất thích và khen hay.
Đêm đông, thầy mới tâm sự: ” Cô Oanh vợ mình dịch đấy! Mình lấy bà ấy phải xin phép Thành ủy mà. Đám cưới chỉ có năm người dự trong đó có anh Cẩn ( thầy Nguyễn Tài Cẩn). Đức biết đấy, chị chú bị coi là xuất thân trong gia đình có của ăn của để. Thi đại học không được vào học ngành tiếng Nga và tiếng Trung Quốc, vì lý lịch chỉ được chọn học tiếng Anh, hoặc tiếng Pháp (?!). Cũng may, nhờ đó giúp được mình. Mình nói tạm được tiếng Anh nhờ hai năm hoạt động ở Thái Lan, nhưng đọc thì thua ông Thuật xa. Bà ấy dịch cho mình nhiều tài liệu. Năm ngoái chị chú còn được cử đi dịch cho đoàn Thể thao của ta đi GANEFO ở Indonesia, khi qua Hongkong có mua cho mình được một cuốn sách mới...”.
Từ một người lính, thầy Hàm Dương đã trở thành một cử nhân Ngôn ngữ học rồi PTS Ngữ âm học thực nghiệm đầu tiên của nước ta dưới sự hướng dẫn của GS Reformatski nổi tiếng tại phòng thí nghiệm của GS Artjumov ( trường MGU). Là người mạnh dạn đi vào cái mới, thầy là người đã sớm đi vào Ngôn ngữ học Ứng dụng với chuyên đề về bệnh mất ngữ (thất ngôn -Aphasia), phát triển chuyên môn Ngôn ngữ học thần kinh (Neurolinguistics) và sau hai mươi năm, thầy mới bảo vệ thành công luận án Tiến Sỹ Khoa học (1984) tại phòng thí nghiệm của GS nổi tiếng V.Ivanov (MGU). Thầy làm Giám đốc đầu tiên của Trung tâm nghiên cứu Châu Á và Thái Bình dương của trường Hà Nội rồi xin trở lại miền Nam với lòng yêu mến Nam bộ và người lính với tấm huy hiệu “Thành đồng Tổ quốc” trong tư cách giáo sư của Trường Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
Đầu hè năm 1991, tôi vào TP dự hội thảo ở Khách sạn nổi. Thầy Dương ân cần mời tôi về nhà vườn của thầy cô ở đường Nơ Trang Long. Không ngờ một năm sau đó thầy đã đột ngột ra đi ở tuổi 63 do căn bệnh tiểu đường đã nhiều năm. Thầy an nghỉ ở nghĩa trang thành phố, bên các chiến hữu Nam Bộ một thời “Ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến”. Mới đây, con gái thầy, chị Hải Âu, đã từ Canada về thăm quê. Hải Âu cho biết, cháu ngoại của thầy năm nay 22 tuổi, sắp tốt nghiệp ngành Communication (Truyền thông) ở đại học Toronto. Cái ngành mà thầy đã khai tâm cho chúng tôi 55 năm trước trong một bài giảng chuyên đề về Lý thuyết Thông tin ngôn ngữ.
Nét nổi bật ở thầy Hàm Dương của chúng tôi là tính thẳng thắn và quyết tâm cao trong mọi việc, từ nhỏ đến lớn. Việc gì đã quyết là làm cho kỳ xong. Thầy đã để lại nhiều thế hệ học trò với niềm kính trọng sâu sắc. Với tôi hình ảnh thầy luôn luôn đọng lại là một trí thức hào hoa phong cách rất hiện đại và một người lính phong trần “đầu súng trăng treo”. Tôi nhớ nhất lời thầy: “Mình là người lính trở thành trí thức, còn các cậu là trí thức thì phải trở thành người lính!”.
Hà Nội, 2001-2011-2019
Đinh Đức