Tướng Đàm Quang Trung trong ký ức của tôi (phần II)
Tháng 7 năm 1976, ông được phân công giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 1, Bí thư Quân khu ủy. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV (tháng 12 năm 1976), ông được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng và Ủy viên Quân ủy Trung ương.
Năm 1979, Trung Quốc xâm lấn các tỉnh biên giới Việt Nam. Báo chí nước ngoài phản ánh khá rõ cục diện tại chiến trường Quân khu 1, tướng Đàm Quang Trung chỉ huy các lực lượng tại chỗ đánh trả lại lực lượng gồm 18 sư đoàn bộ binh, 6 trung đoàn xe tăng và các đơn vị binh chủng khác, do tướng Hứa Thế Hữu - Tư lệnh Quân khu Quảng Châu chỉ huy, tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam. Kinh nghiệm chiến trường phần nào giúp ông chỉ huy có hiệu quả và gây thiệt hại nặng nề cho phía Trung Quốc. Tháng 1 năm 1980, ông được phong quân hàm Trung tướng.
Tháng 7 năm 1981, ông được Quốc hội khóa VII bầu giữ chức Ủy viên Hội đồng Nhà nước, kiêm Tư lệnh Quân khu 1. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V (tháng 3 năm 1982), ông được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1984, ông được phong quân hàm Thượng tướng, làm Tư lệnh Quân khu 1, Bí thư Đảng ủy Quân khu.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI (tháng 12 năm 1986), ông tiếp tục tái cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 6 năm 1987, ông được Quốc hội khóa VIII bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm Chủ tịch Hội đồng Dân tộc. Ông là Đại biểu Quốc hội từ khóa IV đến khóa VIII. Ông nghỉ hưu năm 1992 và mất ngày 3 tháng 3 năm 1995 tại Hà Nội. Thượng tướng Đàm Quang Trung là một trong những vị tướng tài danh của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đại tướng Hoàng Văn Thái và Thượng tướng Đàm Quang Trung tại lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Thành phố Thái Nguyên |
Ông kể câu chuyện vui, khi làm đại đội trưởng đại đội hỗn hợp Việt-Mỹ, Ông thưa với Bác Hồ: “Thưa bác, thiếu tá Thô Mát làm Tham mưu trưởng thì đại đội trưởng là cấp gì ạ”? Bác nghiêm mặt bảo: “Chú phải lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt, dù tá hay tướng đã là chiến sỹ cách mạng đều lo phục vụ nhân dân cho tốt”.
Rồi Bác tặng ông một màn cá nhân và chiếc đồng hồ quả quýt và dặn: “để chú biết giờ giấc, trong quân sự kỷ luật phải rất nghiêm, hiệp đồng chặt chẽ đến từng giây mới có thể đánh thắng được. Bây giờ chú là đại đội trưởng, sau này chú trở thành người chỉ huy cao hơn, vì vậy phải rèn luyện từ bây giờ”.
Đàm Quang Trung là người duy nhất được Bác Hồ, Tổng quân uỷ giao cho trọng trách chỉ huy ba cuộc duyệt binh, diễu binh lịch sử: Cuộc duyệt binh chào mừng Ngày Quốc khánh 2/9/1945, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, thủ đô Hà Nội. Ngày 29/3/1946, chỉ huy cuộc diễu binh thiện chí giữa quân đội ta và quân đội Pháp ở Vườn hoa Canh Nông (nay là công viên Lê-Nin). Ngày 1/1/1955, chỉ huy cuộc diễu binh đón mừng Trung ương Đảng, Bác Hồ và Chính phủ trở về Thủ đô sau 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp thắng lợi bằng chiến thắng Điện Biên Phủ.
Đó là tóm tắt tiểu sử của ông, Riêng tôi mới được tiếp xúc với ông từ khi ông làm Tư lệnh Quân khu I. Không hiểu vì lý do gì anh Bá Đàn Tổng biên tập báo Quân khu I rất hay cử tôi đi công tác với ông, chắc anh nghĩ tôi với ông đều là dân tộc Tày nên dễ làm việc. Ông coi tôi như con cháu trong nhà, có lần “nhờn mỡ” tôi trêu ông: Bác ơi, sao Cao Bằng lắm tướng thế, đến thời điểm này là 18 vị, hồi học đại học với tôi, mấy anh ở cao Bằng, cháu chả thấy ai khá khẩm cả!
Ông quắc mắt lên quát tôi: Không ai thông minh hơn ai cả, nhưng người Cao Bằng dám làm, dám đi, tôi ấy à, bác Hồ bảo: Chú phải vào Khu V, tôi một cán bộ người miền núi, nói tiếng kinh còn chưa sõi, nhưng khoác ba lô lên tàu đi ngay và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Còn dân Hà Giang các ông ấy à, chỉ ru rú núp váy vợ, nên cả hai cuộc kháng chiến có mỗi một ông tướng chiếu cố. Của đáng tội, lúc ấy cả tỉnh Hà Giang có mỗi ông Đàm Triệu Minh Phó tư lệnh Quân khu I về hưu với cấp hàm đại tá quá thâm niên hưởng lương tướng, nhưng cũng có phải người Hà Giang gốc đâu. Tôi xấu hổ chả biết dấu mặt vào đâu.
Tôi nhớ năm 1972, khi học trường Quân chính quân khu I, ông là tư lệnh Quân khu IV về Thái Nguyên thăm gia đình, nhà trường mời ông vào nói chuyện, cả tiếng đồng hồ chẳng thấy ông nói chuyện đánh đấm gì cả chỉ thấy ông chỉ đạo Quân khu IV đào ao thả cá, chăn nuôi gia súc, gia cầm, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân. Đang thất vọng tràn trề, ông kết thúc buổi nói chuyện bằng câu: muốn đánh giặc lâu dài phải thế!
Về Quân khu I, việc đầu tiên ông giao cho chúng tôi là tuyên truyền về cây đậu tương ông bảo, quân mình đông, đất mình rộng sao lại không trồng nhưng mà phải trồng nhiều, ngoài cải thiện cho bộ đội phải bán được, lấy tiền về mua cái khác mà dùng. Vậy là các sư đoàn đóng quân ở Cao Bằng, Lạng Sơn đến Hà Bắc, Bắc Thái đều ra quân khai hoang, trồng đỗ tương.
Cái thời đậm chất bao cấp ấy việc làm của ông đã manh nha kinh tế thị trường. Và thủy điện nhỏ, ông thành lập hẳn một bộ phận do thiếu tá kỹ sư Thăng phụ trách có nhiệm vụ khảo sát toàn bộ sông, suối trên địa bàn quân khu để xây dựng nhà máy thủy điện. Quy mô nhỏ thôi nhưng đủ cung cấp điện cho các đơn vị bộ đội. Rồi công nghệ sinh học Bioga, từ năm 1982 trại chăn nuôi của quân khu ở Ngân Sơn đã không phải đun củi nhờ khí đốt từ phân trâu, bò, lợn. Đơn vị nào trong quân khu cũng có ao cá, vườn cây, trại chăn nuôi với quy mô lớn. Bây giờ ngẫm lại mới thấy ông là người đi trước thời đại có dễ đến 50 năm.
Ngoại hình ông có vẻ dữ vậy song ông là người rất độ lượng, bao dung bởi ông hiểu thấu tâm can lính của mình. Một lần tôi viết sai về hướng làm kinh tế của bộ đội, ông gọi tôi lên phòng và ôn tồn: Phải học bố trẻ ạ, viết thế này có mà người ta cười cho và ông bày cách cho tôi viết bài cải chính. Tôi thấm thía và thầm nghĩ, vớ phải ông tướng khác khéo mất sao. Có câu chuyện nhỏ bây giờ tôi mới kể, tôi là người sửa morát một số báo đặc biệt, ngay dưới măng set chạy hàng chữ to, đậm:… Thiếu tướng Đàm Quang Trung đến dự và phát biểu chỉ đạo… chẳng hiểu tâm trí để đâu, chữ u trong từ Thiếu tướng lại ra chữ n thế là thành thiến tướng.
May báo chưa phát hành, cả đêm chúng tôi toét mắt cắt dán gần vạn tờ báo, tôi kể chuyện đó, ông cười khà khà và nói: Mày mà không phát hiện ra là giết sống tao đấy! rồi ông hóm hỉnh kể, các cậu có biết tớ đeo quân hàm đại tá mười mấy năm không? Sinh thời Bác Hồ mấy lần nhắc tớ về”chuyện ấy” đấy, 24 tuổi tớ đã là Chi đội trưởng, khiêm tốn mấy cũng phải thừa nhận tớ đẹp trai, có tài, con gái mê mệt tớ ấy chứ! Thế nên thằng này mới định thiến tao trên báo. Cả xe được một mẻ cười.
Khánh thành nhà tưởng niệm Thượng tướng Đàm Quang Trung tại Hà Quảng, Cao Bằng |
Tôi nhớ năm 1989, khi Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt nam tổ chức sắp xếp lại các đơn vị, trong nghị quyết ghi rõ:.."Tùy điều kiện từng đơn vị bố trí sắp xếp cho hợp lý..." thế mà quân khu I nhanh nhảu giải thể Báo và Đoàn văn công quân khu. Khi đó, ông là Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước, tôi đem chuyện này nói với ông, ông cười và bảo: Quân khu I định học gương anh La Văn Cầu à? sau này nghĩ lại mới thấy ông quá thâm thúy, đoàn văn công, báo chí là công cụ làm công tác tư tưởng, xóa sổ các đơn vị ấy cơ quan chính trị biết làm cái gì! rồi sẽ thành lập lại thôi.
Y như rằng đúng như lời ông, Tướng Đàm Văn Ngụy, Tư lệnh quân khu đi họp quốc hội về, ông quyết định lập lại đoàn văn công quân khu, ông "xạc" cơ quan chính trị ngay tại hội trường: bố trí sắp xếp lại là tinh giản, làm gọn nhẹ và hiệu quả chứ không phải xóa sổ.
Tướng Đàm Quang Trung về cõi vĩnh hằng đã hơn 20 năm, mỗi lần nghĩ về ông tôi chiêm nghiệm, hình như ông luôn đi trước thời đại ít nhất là 30 năm, có những việc ông làm từ những năm 80 của thế kỷ trước, đến bây giờ ta làm vẫn không bằng ông từ nông nghiệp, thủy sản, thủy điện...đến công tác chính trị, tư tưởng ông đều hơn người.
Còn chuyện này, bây giờ thì bình thường nhưng lúc ấy "thật khủng" ông đi viếng và chia buồn với gia đình thượng tướng Chu Văn Tấn, xe về đến Phố Nỉ, tôi rụt rè hổi ông: Cụ đi thế không sợ vào sổ đen à? ông quắc mắt, sợ gì về nuôi cá là cùng chứ gì!, ông ấy làm chính ủy, tôi làm tư lệnh sống với nhau bao nhiêu năm, không đi còn ra cái giống gì.
Bây giờ ngẫm lại càng thấy đúng, thế mới là tướng tài. Sự nghiệp oanh liệt là thế, song trong đời thường ông luôn gần gũi, hòa mình với bộ đội và nhân dân, ông hướng dẫn, vận động mọi người nuôi cá, trồng cây, rau màu như một kỹ sư nông nghiệp. Nhưng quan trọng nhất là ông kích thích tính chủ động, sáng tạo ở mỗi con người trong cuộc sống.
Đặc biệt, với quê hương, khi làm tư lệnh Quân khu, mặc dù nhà riêng ở Thái Nguyên nhưng năm nào ông cũng phải về Cao Bằng ít nhất hai lần. Về bản, ông tha thẩn tìm kỷ niệm xưa, tìm bạn cũ. Phố phường, đô hội không làm ông quên được nơi cắt rốn, chôn rau. Tôi biết Cao Bằng vẫn nguyên vẹn trong ông và Quân đội, nơi rèn luyện ông trưởng thành. Ông mãi mãi là người lính./.
Thiện Giang