Học trò trường huyện
Ông mới học xong lớp 3, lớp 4 gì đó nhưng làng thiếu giáo viên nên ông được cử ra dạy lớp vỡ lòng. Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh ông cao lớn, chất phác, mặc quần âu, áo sơ mi cộc tay vào mùa hè, dép cao su đủ 4 quai, tay ôm quyển sách Vần vỡ lòng và Sổ điểm, tay cầm theo cái thước gỗ lim dài hàng mét và mấy viên phấn, tóc chải ngôi thẳng thớm, miệng luôn tươi với cả người làng và lũ học trò. Ông rất nghiêm nhưng chưa đánh chúng tôi bao giờ. Chả biết ông dạy kiểu gì mà sau vài tháng, chữ gì chúng tôi cũng đọc được. Ông còn dạy chúng tôi làm phân xanh, quét vệ sinh đường làng và tập thể dục hàng ngày từ sáng sớm. Hết buổi dạy, ông lại đi làm đồng như người khác.
Ảnh lễ khai giảng những năm 1960 (nguồn internet) |
Vào đại học mới biết đến những câu thơ rất hay của Nguyễn Bính “ học trò trường huyện ngày năm ấy/ anh tuổi bằng em lứa tuổi thơ”. Rồi những đội chung lá sen thay nón, chuyện lũ bướm nhận lầm mùi hương sen nên đậu vào tóc em, chuyện xa trường, chuyện mối tình thủa học trò đẹp mơ mộng mà buồn... Cứ ngâm nga, cứ mơ màng vì nghĩ mình cũng học trường huyện, cũng đi về cùng lũ bạn như mình, chỉ có điều chẳng mơ mộng thế, chẳng có mối tình quê nào nên mình mượn chuyện người khác làm chuyện của mình để tự sướng mà sao mấy chục năm rồi cứ nhớ thương da diết lạ.
Mấy hôm trước chú em báo tin: ông hàng xóm ở quê mất, có phải phúng viếng gì không? Tôi bảo chú em ông ấy với nhà mình không phải họ hàng nên về nghĩa vụ, không cần phúng viếng nhưng tình nghĩa láng giềng, hơn nữa ông với tôi có những ân tình đặc biệt nên nhờ chú em sửa lễ viếng ông như viếng một người thân. Rồi lại miên man nhớ về ông và quãng đời học trò ở quê của mình.
Chú ruột tôi là giáo viên, ông có dạy mấy anh chị tôi ở trường cấp 2 còn người khai tâm cho lũ chúng tôi lại là ông hàng xóm này. Sau này tôi mới biết, ông mới học xong lớp 3, lớp 4 gì đó nhưng làng thiếu giáo viên nên ông được cử ra dạy lớp vỡ lòng. Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh ông cao lớn, chất phác, mặc quần âu, áo sơ mi cộc tay vào mùa hè, dép cao su đủ 4 quai, tay ôm quyển sách Vần vỡ lòng và Sổ điểm, tay cầm theo cái thước gỗ lim dài hàng mét và mấy viên phấn, tóc chải ngôi thẳng thớm, miệng luôn tươi với cả người làng và lũ học trò.
Ông rất nghiêm nhưng chưa đánh chúng tôi bao giờ. Chả biết ông dạy kiểu gì mà sau vài tháng, chữ gì chúng tôi cũng đọc được. Ông còn dạy chúng tôi làm phân xanh, quét vệ sinh đường làng và tập thể dục hàng ngày từ sáng sớm. Hết buổi dạy, ông lại đi làm đồng như người khác. Tôi không gọi ông là thầy mà gọi là chú vì ông chỉ bằng tuổi chú tôi. Ông bảo tôi: ở nhà thì gọi chú nhưng ở lớp gọi như mọi người cho tiện.
Rồi tôi học cấp 2 ở xã khác. Rồi không thấy ông đi dậy học nữa. Tôi cũng không để ý gì. Mãi sau này, tôi mới hỏi ông sao ông bỏ nghề dạy học? Ông bảo: “trình độ chú chỉ đủ dạy Vỡ lòng. Họ chuẩn hoá giáo viên, chú không có bằng nên về làm ruộng. Thôi thì lúc đầu xã thiếu người, thấy chú dậy được, họ cho dậy. Giờ không cần nữa thì chú nghỉ”. Tôi biết, chú làm ăn cơ chỉ, dạy con cái rất nghiêm cẩn. Nếp nhà chú có nhiều thứ bắt đầu từ con người chú. Tôi thầm nghĩ chú như thầy Duysen tôi đọc trong truyện, biết đến đâu rút ruột ra đến đó cho đời, không so đo hơn thiệt. Lớp người đó cứ vắng dần trong xã hội mình.
Trong ảnh là cảnh thầy giáo đang dạy các học trò đan mũ rơm chống mảnh bom |
Từ cấp 2 đã học xa nhà nhưng cấp 3 mới để lại cho tôi nhiều ấn tượng về tuổi học trò. Lao động xây trường cả tháng, lũ chúng tôi làm việc như những nông dân. Không hiểu sao ngày ấy nhà nước huy động sức dân nhiều thế mà ai cũng sẵn lòng. Hàng tháng trời gánh đất dựng trường, học ít, làm nhiều, vất vả thế mà sao ai cũng vui. Nhớ những buổi đi học sớm mùa Đông, chân trần mọng đỏ vì phát cước, những ngày mưa rào, lội sông, băng đồng ướt như chuột bị mưa. Anh bạn cùng lớp với tôi nhỏ bé, thông minh nhưng nhát, một mình một làng, về cách nhà chỉ độ hơm km nữa thôi mà đành phải trọ vì trời tối, đi trên bờ đê sông Hoá vắng rợn người, thấy sợ. Có hôm tôi ngủ được một lúc, tỉnh dậy, nhìn ra ngoài trời thấy mờ mờ sáng, nghe gà eo óc gáy, tưởng muộn giờ, thế là lau mặt qua loa rồi cầm túi chạy. Đường đi qua cánh đồng, đi mãi vẫn không thấy sáng hơn, chỉ thấy sương mù trắng đồng. Vừa sợ, vừa không biết làm sao thế là lại chạy tiếp. Đến lớp trời vẫn chưa sáng. Gục đầu xuống bàn ngủ một giấc mới thấy có người lục tục đến lớp. Thì ra mình đã đi học từ nửa đêm. Nhìn quần áo xơ xác, chỗ chân toé máu đã khô, đau nhưng lại thấy mừng vì không bị muộn giờ.
Học sinh nam ngày xưaa trong trang phục áo sơmi trắng, quần âu |
Học trò trường huyện lớp tôi năm ấy sau khi ra trường phần lớn vào chiến trường: bộ đội, thanh niên xung phong, nơi nào cũng có mặt. Bây giờ gặp lại nhau, mọi người mới bạch hoá một vài chuyện: cũng có những tình cảm chớm nở, chung chiêng hơn tình bạn nhưng chưa đi đến đâu; cũng có những mối tình đi gần hết cuộc đời, sâu nặng nhưng không lãng mạn như sách vở. Rất nhiều gian khó mà chúng tôi ngày ấy đã vượt qua nhưng không ai nghĩ mình đang vượt khó. Nó như một việc ai cũng phải làm. Lại thấy thương và biết ơn các thày cô ở những miền quê khác ngày ấy đã về vùng quê nghèo, hẻo lánh của chúng tôi, vừa dạy chữ, vừa dạy chúng tôi những bài học làm người. Càng thấy nếu ngày ấy không có sự chăm sóc của xã hội thì đám trẻ trâu nghèo chúng tôi khó có điều kiện trưởng thành. Chúng tôi đến bây giờ vẫn nói với nhau về những ngày ấy với rất nhiều nhớ thương, rất nhiều tình cảm tri ân thầy cô, xã hội, bạn bè mỗi khi có dịp. Nó trở thành một tài sản cho mỗi người chúng tôi.
GS.TS Phạm Quang Long