kỷ niệm 110 năm ngày sinh Hoàng Văn Thụ
Hoàng Văn Thụ - người con ưu tú của xứ Lạng (phần I)
Hoàng Văn Thụ, người con của xứ Lạng từ lâu đã không còn xa lạ với chúng ta. Ông là một trong những chiến sĩ cộng sản kiên cường tiêu biểu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
|
Nói đến Hoàng Văn Thụ chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ “Nhắn bạn” của ông. Bài thơ chỉ có 8 câu, nghệ thuật không có gì đặc sắc, nhưng đó là tình cảm thiêng liêng của ông với bạn bè, đồng chí, với cách mạng. Đọc lại thơ ông, chúng ta càng hiểu lời ông nhắn gửi.
Việc nước xưa nay dẫu bại thành/Miễn sao giữ trọn được thanh danh
Phục thù chí lớn không hề nản/Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành
Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm/Chí còn theo dõi buổi tung hoành
Bạn hỡi gần xa đang chiến đấu/Trước sau xin giữ tấm lòng thành.
Không chỉ là một chiến sĩ cộng sản kiên trung, Hoàng Văn Thụ còn là một nhà thơ, nhà báo với những đóng góp nhất định cho nền văn học và báo chí Việt Nam. Cuộc đời, sự nghiệp chiến đấu, học tập và lao động của ông chưa đầy nửa thế kỷ nhưng những gì ông đã làm cho dân tộc khiến chúng ta càng mến mộ ông.
Ông đến với cách mạng bằng trái tim khối óc của cả thời trai trẻ với tình cảm và lý trí của một người luôn đau đáu nghĩ suy về vận mệnh tổ quốc. Giờ đây nhắc tới ông ta vẫn rút ra được những bài học mang tính thời sự nóng hổi. Thuở ấy giữ trọn thanh danh là giữ trọn khí tiết của người cộng sản. Còn bây giờ giữ trọn thanh danh là phải “vận công” chống lại trước cám dỗ của vật chất, nhưng không phải ai cũng giữ được “tấm lòng thành”.
Nhà cách mạng, nhà báo Hoàng Văn Thụ là dân tộc Tày, sinh ngày 4.11.1906 tại xóm Lạc Phạn, xã Nhân Lý, huyện Văn Uyên (nay là làng Phạc Lang, xã Văn Thụ, huyện Văn Lãng), tỉnh Lạng Sơn.
Xuất thân trong một gia đình lao động, cha ông là Hoàng Khải Lan, một nông dân miền núi từng làm lý trưởng (một số tài liệu cho rằng cụ Hoàng Khải Lan có thời làm Tri phủ), mẹ là Hà Thị Mùi, một phụ nữ nông dân hiền hậu, đảm đang, suốt đời gắn bó với ruộng nương và rất mực thương yêu chồng con.
Lạng Sơn quê hương ông, vùng đất địa đầu Tổ quốc nổi tiếng về truyền thống chống giặc ngoại xâm, nơi có ải Chi Lăng, ải Pha Lũy từng là mồ chôn xác giặc. Không chỉ vậy, mảnh đất này còn là nơi núi sông thơ mộng với những phong cảnh làm mê hoặc lòng người đã được ghi lại trong những câu ca dao xưa:
Đồng đăng có phố Kỳ Lừa/Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh/Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem /Mảng vui quên hết lời em dặn dò.
Miền biên ải với thiên nhiên trong lành tươi mát, con người hồn hậu nhân ái đã nuôi dưỡng tâm hồn Hoàng Văn Thụ từ thuở thiếu thời trở thành một con người trong sáng, sẵn lòng hy sinh vì người khác mà không hề toan tính thiệt hơn.
Hoàng Văn Thụ là con thứ ba trong gia đình có bốn chị em, lúc nhỏ có tên là Hoàng Hải Do, Hoàng Đình Hưng, đến khi đi học mới lấy tên là Hoàng Văn Thụ. Ông được học cả chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Học chữ Hán ở làng từ năm 8 tuổi, cậu bé nổi tiếng hiếu động nhưng thông minh chăm chỉ, ham hiểu biết, quý trọng thầy cô, bạn bè, luôn được mọi người yêu mến.
Ông bộc lộ tính cách dũng cảm ngay từ khi còn rất nhỏ. Hành động lao mình xuống dòng sông sâu cứu bạn của ông được mọi người nể phục và thường kể lại cho nhau. Năm 1920, sau khi học xong trường làng, 14 tuổi, ông ra tỉnh lỵ Lạng Sơn học tiếp ở trường Pháp - Việt. Ở đây, ông đã được tận mắt chứng kiến những cảnh bất công ngang trái do chính quyền thực dân phong kiến gây ra đối với nhân dân, chúng đè đầu cưỡi cổ, áp bức bóc lột thậm tệ, đẩy người dân lao động lâm vào tình cảnh cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc ngay trên mảnh đất quê hương mình, khiến ông phải trăn trở tìm hiểu tại sao? điều đó chi phối suy nghĩ và hành động của ông.
Anh hưởng của phong trào yêu nước đầu thế kỷ, ông và các bạn hữu có chung chí hướng như Hoàng Đình Giong, Lương Văn Chi tổ chức thành nhóm thanh niên yêu nước, tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lê nin, bí mật hội họp, trao đổi nghiên cứu tìm đường làm cách mạng. Cuối năm 1924, hành động dũng cảm với tiếng bom vang dội của Phạm Hồng Thái mưu sát tên toàn quyền Meclanh ở Sa Diện Hồng Châu Trung Quốc đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần yêu nước của cả nhóm, cổ vũ họ tham gia các hoạt động cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trong hai năm 1925 – 1926, Hoàng Văn Thụ cùng các bạn tích cực tham gia các phong trào đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Chu Trinh do Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội tổ chức ở Lạng Sơn. Qua các hoạt động chính trị này, Hoàng Văn Thụ cùng các bạn đã dần giác ngộ cách mạng, nhận thức được rằng đấu tranh cách mạng là con đường duy nhất đúng để thoát khỏi áp bức bóc lột, giải phóng dân tộc.
Nhà lưu niệm Hoàng Văn Thụ |
Cuối năm 1927, Hoàng Văn Thụ cùng Lương Văn Chi sang Bảy Đáy thuộc tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, nơi Việt Nam Cách mạng đồng chí hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, nhưng khi vừa tới thì bị bọn đặc vụ phát hiện vây bắt. Chạy thoát về Long Châu, Hoàng Văn Thụ ở nhờ nhà một người quen làm thợ may, trải qua nhiều khó khăn gian khổ để kiếm sống và tiếp tục hoạt động.
Sống trong cái nghèo đói bần cùng cùng gia chủ, Hoàng Văn Thụ đã từng đi bán thuốc cao, đi ăn xin, nhưng ông không nản chí. Sau một thời gian thử thách bằng thực tiễn, cuối năm 1928 Hoàng Văn Thụ được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Vinh dự giành cho những nỗ lực không ngừng của ông đã thôi thúc ông càng hăng say phấn đấu quên mình vì sự nghiệp chung.
Năm 1930, vào học làm thợ ở xưởng cơ khí do ông Vi Nam Sơn, một cán bộ của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội phụ trách, Hoàng Văn Thụ vừa làm việc vừa tìm cách bí mật tuyên truyền cách mạng trong công nhân.
Hoạt động của Hoàng Văn Thụ đang tiến hành thuận lợi, có nhiều kết quả tốt thì bọn quân phiệt Quốc dân đảng ở tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây chuẩn bị thôn tính lẫn nhau. Trước biến động lớn này, để đảm bảo an toàn, xưởng máy phải chuyển rời đến một địa điểm khác thuộc tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, đổi tên là Nam Hưng.
Tại đây, chi bộ Đông Dương Cộng sản đảng gồm ba người: Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Hoàng Vĩnh Tuy được thành lập, Hoàng Đình Giong làm bí thư chi bộ. Với đồng lương ít ỏi của một người thợ, Hoàng Văn Thụ đã phải chi tiêu hết sức tằn tiện để có thể sống, hoạt động và đóng góp cho các tổ chức cách mạng. Chi bộ ba người của ông hoạt động ngày một vững vàng, dần trở thành Ban liên tỉnh ủy Cao - Lạng, Hoàng Văn Thụ được phân công phụ trách Lạng Sơn. Nhận nhiệm vụ mới, ông rời xưởng Nam Hưng về Long Châu, gây dựng cơ sở ở Lũng Nghìu làm nơi liên lạc với các chiến sĩ cách mạng ở Việt Nam.
Người con ưu tú của xứ Lạng sống mãi với non sông |
Từ năm 1930 Hoàng Văn Thụ đã gây dựng được ba tổ quần chúng tại các xóm Ma Mèo, Tà Lài thuộc huyện Văn Uyên, tới năm 1931 ông mở rộng thêm nhiều cơ sở ở các địa phương Khơ Đa, Na Sầm, Đồng Đăng, Kỳ Lừa, Thất Khê, và tới năm 1932 ông đã mở rộng tới xã Nhân Lý quê hương mình. Mỗi khi vận động thêm được một người yêu nước tham gia cách mạng, ông thường tổ chức huấn luyện tại hang Áng Cúm gần Lũng Nghìu rồi giao nhiệm vụ trở về phát triển tổ chức trong nước.
Năm 1932, Lê Hồng Phong nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản về hoạt động tại Việt Nam, khi về tới Long Châu tìm bắt liên lạc với Ban liên tỉnh ủy Cao – Lạng, đã gặp và trao đổi về tình hình mới của cách mạng với Hoàng Văn Thụ. Cuối năm 1934, Ban liên tỉnh ủy lâm thời họp và đề cử Hoàng Văn Thụ làm đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Đông Dương. Năm 1935, sau khi dự đại hội, ông được cử về nước hoạt động.
Giữa năm 1938, Hoàng Văn Thụ được Lê Hồng Phong giao nhiệm vụ về gặp Xứ ủy Bắc Kỳ tại Hà Nội để truyền đạt chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ chống phát xít ở Đông Dương. Tại đây ông được bầu vào Ban thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ cùng với Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Bí thư Liên Xứ ủy Bắc Trung Kỳ giai đoạn này là Hoàng Văn Nọn (tức Hoàng Tú Hữu), và được cử ra Quảng Ninh để củng cố cơ sở Đảng ở Hòn Gai, Uông bí.
Đầu năm 1939 Hoàng Văn Thụ tham dự Hội nghị Xứ ủy mở rộng do Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ triệu tập ở làng Vạn Phúc Hà Đông, và được cử làm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Thời gian hoạt động ở Hà Đông, cơ quan Xứ ủy bị thực dân Pháp theo dõi khủng bố ráo riết, để tránh bị lộ, ông phải cải trang và thường xuyên di chuyển chỗ ở. Vì ở nhờ trong nhiều nhà dân, có điều kiện gần gũi nhân dân, ông đã tuyên truyền, vận động được nhiều người ủng hộ cách mạng, tham gia cách mạng, và để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng dân về một “đồng chí Bảy”, “anh Lý” chân thành tận tụy, hết lòng vì dân vì nước. Thời gian này, ngoài đảm trách Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ ông còn được giao trực tiếp phụ trách thành ủy Hà Nội. Do có nội phản, Thành ủy luôn bị phá. Từ năm 1939 đến 1943 Hoàng Văn Thụ đã 10 lần khôi phục lại Thành ủy Hà Nội.
Đ H