50 Năm - Gian truân và vinh quang đời làm báo
Khóa Đại học báo chí đầu tiên (1969-1973) của trường Tuyên huấn Trung ương, nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền, vừa kỷ niệm 50 năm ngày nhập trường. Tôi không có ý định viết bài bởi không dám “múa rìu qua mắt thợ” nhưng đọc những dòng gan ruột của anh Phí Văn Chiến, anh Đậu Ngọc Đản tôi lại “ngứa nghề”. Cũng là sắp xếp lại ý của các anh.
Khóa I Báo chí - Xuất bản gặp lại nhau sau 50 năm |
Anh Phí Văn Chiến cựu sinh viên khóa I tâm tình, thế giới liệt nghề làm báo vào một trong bốn nghề nguy hiểm, đó là: Quân đội, Cảnh sát, Thợ lò và Báo chí. Ai đã đi qua cả chặng đường dài 50 năm gắn bó với nghề làm báo, trong đó có những tháng năm làm báo trên chiến trường, còn sống cho đến nay, mới thấu hiểu nỗi gian lao, khổ ải, đầy vinh quang nhưng cũng nhiều cay đắng. Nhà văn Nguyễn Uyển cũng là cựu sinh viên báo chí - xuất bản khóa I gọi đúng tên đó là nghề "khắt khe, nghiệt ngã".
Tháng 10/1969, thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá III, Ban Tuyên huấn Trung ương chỉ đạo Trường Tuyên giáo Trung ương (nay là Học viện Báo chí - Tuyên truyền, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) mở khoá đào tạo chính quy ngành Báo chí - Xuất bản đầu tiên của nước ta.
Nhà báo Phí Văn Chiến ở chiến trường |
Gần 200 sinh viên là bộ đội, công an, thanh niên xung phong, công nhân, cán bộ làm báo, biên tập xuất bản và một số học sinh phổ thông đã được rèn luyện thử thách qua chiến đấu, sản xuất và công tác từ mọi miền đất nước đã về tựu trường.
Khoá này mặc dù chưa thật “chính quy”, đầu vào chưa chuẩn chỉnh, giáo trình chưa hoàn thiện, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nhưng bù lại, sinh viên được học toàn thày nổi tiếng của các trường đại học như GS Đinh Xuân Lâm, GS Hoàng Xuân Nhị, GS Hà Minh Đức, GS Trần Quốc Vượng, GS Đinh Gia Khánh, GS Nguyễn Lộc, GS Phan Huy Lê, GS Lê Đình Kỵ, các nhà báo Hoàng Tùng, Quang Đạm, Lưu Quý Kỳ, Nguyễn Mạnh Hào và nhiều nhà báo nổi tiếng của báo Nhân dân, Đài tiếng nói Việt Nam, báo QĐND, TTXVN...
Chụp ảnh lưu niệm với thày cựu trưởng khoa Trần Bá Lạn |
Các thày đã đến trực tiếp giảng dạy ngay tại giảng đường vốn là Dinh thự của Hoàng Cao Khải tại ấp Thái Hà, nay thuộc quận Đống Đa. Sinh viên còn được nghe các nhà thơ Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Chính Hữu, Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Thiếu Sơn… bình thơ, nói chuyện, góp phần nâng cao kiến thức và thực tế sinh động cho các nhà báo tương lai. Khoa Báo Chí ngày ấy do thầy Trần Bá Lạn làm chủ nhiệm.
Mùa xuân năm 1972, do yêu cầu của chiến trường, 53 sinh viên khóa I học cấp tốc 3 tháng lớp Phóng viên Tiền phương, sau đó tung vào mặt trận Quảng Trị - một chiến trường rất ác liệt nhất lúc bấy giờ. Ngày 25/5/1972, Đoàn Phóng viên Tiền phương cấp bậc binh nhì, mũ tai bèo, đeo súng ngắn, máy ảnh… lên xe tải bịt kín bạt, vượt Trường Sơn vào miền Nam.
Ba nghệ sỹ nhiếp ảnh cựu sinh viên khóa I: Vũ Đạt, Trần Hồng và Hoàng Thiểm |
Một vinh dự lớn lao là, trong Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân năm 1975, ở đâu cũng có mặt các nhà báo - chiến sỹ - sinh viên khóa I bổ sung vào quân đội năm ấy. Tất cả 5 cánh quân tiến vào giải phóng Sài Gòn có khá đông phóng viên là học viên Báo chí - Xuất bản của Trường Tuyên huấn Trung ương.
Trên hướng Tây Bắc có Lê Trung Đạo, Nguyễn Xuân Điển, Lê Viết Lung, Dương Văn Xuyến (Báo Binh đoàn Quyết Thắng - Quân đoàn 1). Hướng Đông Bắc có Nguyễn Đức Thiện, Quốc Việt, Đinh Hữu Ngợt (Báo Binh Đoàn Hương Giang - Quân đoàn 2). Hướng Bắc có Nguyễn Đắc Sinh, Lê Thanh, Trần Kim Dung, Nguyễn Mạnh Tuấn (Báo Binh đoàn Tây Nguyên - Quân đoàn 3). Hướng Đông Nam có Đỗ Xuân Trường, Vũ Hồng Hưng, Đỗ Đình Nghiệp, Nguyễn Ngọc Quỳnh (báo Binh đoàn Cửu Long – Quân đoàn 4). Hướng Tây Nam từ Đồng Tháp Mười lên có Vũ Đạt, Thiều Quang Biên (Báo Quân đội Nhân dân). Từ miền Đông Nam Bộ đổ xuống có Hoàng Huân, Nguyễn Văn Sum, Đỗ Tất Thắng, Trần Đình Bá, Lê Nhật, Việt Ân, Cầm Hùng (Báo Quân giải phóng miền Nam).
Rạng rỡ ngày gặp mặt |
Từ miền Bắc đi theo các quân đoàn ở hậu phương vào các chiến dịch có Ngọc Đản, Hoàng Thiểm (Phòng Thông tấn quân sự); Khánh Toàn (Buổi Phát thanh Quân giải phóng miền Nam - Đài Phát thanh Giải phóng); Nguyễn Hải Chinh (phóng viên Thông tấn quân sự Trị - Thiên - Huế). Tại khu 5, khi tiến vào giải phóng Đà Nẵng có Phạm Quang Dụ, Nguyễn Duy Quyền, Nguyễn Khắc Thông, Vũ Mạnh Long, Phạm Văn Rục, Nguyễn Minh Quang, Phí Văn Chiến (Báo Quân Giải phóng miền Trung Trung Bộ). Trong 8 người vào khu 5 thì Phạm Quang Dụ hy sinh tháng 12/1974, trước bình minh của mùa xuân đại thắng. Nhiều người trong số đó sau này trở thành những nhà báo lớn, những cây bút uy tín.
Tất cả 53 phóng viên đều được phân công vào các sư đoàn chủ lực 304, 308, 312, 320, 324, 325. Họ thật sự là những nhà báo mặc áo lính. Những tin, bài, ảnh của họ rất sinh động, đầy ắp không khí chiến đấu, được chuyển về các báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Phát thanh Quân đội Nhân dân.
Họ vẫn bên nhau |
53 sinh viên khóa I khoác áo lính cho đến ngày thống nhất đất nước. Các bạn ở lại tiếp tục học nốt chương trình đến hết năm 1973 cũng ra trường tỏa về các tờ báo trung ương, địa phương. 50 năm trôi qua, bằng mồ hôi, nước mắt và những đêm không ngủ, lớp làm báo chí - xuất bản ngày ấy đều đã hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều nhà báo, biên tập viên xuất bản trở thành nổi tiếng. Nguyễn Uyển, Phạm Quốc Toàn vừa làm quản lý vừa làm báo, viết văn. Nguyễn Đức Thiện một đời đau đáu với những trang viết, trước khi rời thế gian anh đã di chúc hiến xác cho y hoc. Phí Văn Chiến không bao giờ thỏa hiệp với cái ác, cái xấu. Đậu Ngọc Đản, Hoàng Thiểm, Trần Hồng, Vũ Đạt với những bức ảnh đóng đinh vào lịch sử dân tộc và lịch sử báo chí. Còn nữa, các nhà quản lý báo chí: Phạm Ngọc Thiện, Nguyễn Quang Thống, Đặng Thu Viện, Vũ Đình Hương, Lê Cảnh Thuận… Họ tự hào vì đã đóng góp cho nền báo chí - xuất bản nước nhà nhiều tác phẩm có giá trị, được bạn đọc tin yêu. Hạnh phúc nhất đối với họ, là được làm báo, như Ju Li Út Phu Xích (nhà báo thời thế chiến thứ II, tác giả của cuốn sách Viết dưới giá treo cổ) viết: “Vinh quang nhất của người làm báo không phải là tấm huân chương, mà là có ai đó bảo rằng: Tôi đã được đọc bài báo của bạn!”.
Chiến sĩ biệt động Nguyễn Trung Kiên (Cao Thị Nhíp, quê Tiền Giang) dẫn đường cho các chiến sĩ Sư đoàn 10 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất ngày 30-4-1975. (Ảnh Ngọc Đản SV Báo chí - Xuất bản Khóa I) |
Có thể nói, 53 nhà báo vào chiến trường là dấu ấn sáng chói của lớp đại học báo chí khóa I. Có nhà báo chiến sĩ khóa I đã vĩnh viễn nằm lại trên chiến trường và 40 nhà báo khác đã mất do tuổi cao, bệnh tật, họ vĩnh viễn không bao giờ đến họp mặt được nữa. Lớp đại học báo chí khóa I trẻ nhất cũng đã 67 tuổi, tất cả đều tóc bạc, da mồi. Thày Trưởng khoa Trần Bá Lạn đã ở tuổi 90 nhưng mọi người rất vui khi thấy thày vẫn khỏe, vẫn sáng tác, vẫn sống chết với nghề báo.
50 năm miệt mài với nghề, hôm nay các anh trở về đây nhưng không còn đầy đủ nữa, đã vắng đi nhiều khuôn mặt thân thương. Dưới mái trường xưa, các anh cùng ôn lại những kỷ niệm, tự hào về mái trường Tuyên huấn Trung ương nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tự hào về nghề Báo chí - Xuất bản đầy gian truân và vinh quang./.
Đỗ Hằng