Ngô trong nét văn hóa ẩm thực của đồng bào dân tộc Mông
Mưu sinh từ bao đời trên những miền núi đá cao và xa của miền cực bắc Tổ quốc, đồng bào Mông đã tạo dựng cho mình một vốn văn hóa mang đậm bản sắc, làm giàu đẹp cho văn hóa quê hương mình. Về những bản Mông ở Mèo Vạc Hà Giang, sức hấp dẫn và đậm đà của những món ẩm thực đã dậy lên sự ấm áp và nét độc đáo về cuộc sống của đồng bào nơi đây.
Mèo Vạc là một huyện miền núi biên giới phía Bắc của tỉnh Hà Giang, có trên 78 % là đồng bào dân tộc Mông. Chẳng biết tự bao giờ cây ngô đã có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt và phát triển kinh tế đối với đồng bào dân tộc Mông.
Tập quán sinh sống trên các triền núi cao, giữa rừng đá tai mèo lởm chởm trập trùng, không đủ đất trồng lúa nên từ bao đời nay, lương thực chính của người Mông là cây ngô và từ nguồn thực phẩm này họ đã chế biến thành nhiều món ăn độc đáo với hương vị đậm đà, khó quên.
Là thế hệ thứ ba trong gia đình vẫn lưu giữ được các món ẩm thực truyền thống của dân tộc Mông, Chị Sùng Thị Pà ở xã Cán Chu Phìn, huyện Mèo Vạc tâm sự: “Các món ẩm thực truyền thống của dân tộc Mông, được gia đình tôi gìn giữ từ bao đời nay rồi, mỗi món ăn đều có ý nghĩa riêng và được làm theo mùa.
Ngô nguyên liệu làm nên nhiều món ẩm thực độc đáo |
Có những món lại chỉ dịp tết mới làm như bỏng ngô và bánh láo khoải…Để làm ra những món ẩm thực độc đáo này, đòi hỏi người phụ nữ Mông phải rất khéo tay. Cùng với mèn mén món ăn độc đáo nổi tiếng nhất của đồng bào Mông chúng tôi là “Pá páo cừ” (bánh ngô).
Ở đây bất kể người con gái Mông nào chỉ mới hơn 10 tuổi đã biết làm các món ẩm thực từ ngô để giữ gìn nét văn hóa truyền thống của dân tộc và một phần các món ăn từ ngô đã trở thành nghề mưu sinh đối với nhiều hộ gia đình.”
Bà Vừ Thị Dà ở xã Cán Chu Phìn, huyện Mèo Vạc học làm bánh ngô từ mẹ đẻ khi mới 15 tuổi. Bà Dà chia sẻ: “Ngày xưa, mỗi mùa ngô gia đình tôi thường làm bánh đi bán tại các chợ phiên để kiếm thêm thu nhập. Khi lập gia đình riêng tôi vẫn làm thường xuyên để lưu giữ hương vị quê hương.” Bà cho biết để có được một mẻ bánh với hương vị thơm ngon, người làm bánh phải trải qua một quá trình lao động công phu, nhất là vệ sinh phải đảm bảo.
Bánh ngô chủ yếu được làm từ ngô nếp, thơm và dẻo. Khi hạt ngô còn sữa, hái về đem tách hạt rồi cho vào cối đá xay nghiền thành bột. sau đó sẽ bỏ bột ngô xay vào một chiếc túi treo lên cao để phần nước thoát ra ngoài còn bột ngô được giữ lại bên trong. Để bột ngô nhanh khô người ta đặt túi bột ngô vừa xay vào ống tro bếp hút nước được nhanh hơn.
Khoảng hai ngày thấy bột ngô trong túi đông lại, cho ra đánh tơi rồi cho một lượng nước vừa đủ vào đảo đều sau đó lăn thành từng chiếc bánh hình tròn giống như bánh rán đem chảo rán vàng. Tùy thuộc vào sở thích của từng người mà khi nặn bánh cho thêm một chút mật mía, mật ong và mùi thơm của ngô non. Còn một số gia đình thường gói thành bánh ba cạnh, nặn thành từng bánh nhỏ rồi lấy bẹ của bắp ngô gói bên ngoài thành hình tam giác sau đó bỏ vào chõ hấp chín, khi ăn bánh rất dẻo có mùi vị thơm ngon.
Anh Nguyễn Công Thắng, khách tham quan đến từ Hà Nội cho biết, dù đã đi du lịch ở nhiều vùng miền khác nhau, ăn nhiều loại bánh như: bánh gai, bánh gio, bánh rậm... nhưng anh vẫn ấn tượng nhất là những chiếc bánh ngô được bán tại các phiên chợ vùng cao ở Hà Giang, bánh vừa ngon, dẻo, có hương vị rất lạ, rất đậm đà mà lại có cái tên độc đáo “pá páo cừ”.
Trải qua từ đời này sang đời khác, ẩm thực từ ngô đã trở thành những nét văn hóa mang đậm bản sắc đối với đồng bào dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc, Hà Giang. Hiện nay, để giữ gìn và bảo tồn những nét văn hóa đó, hàng năm huyện Mèo Vạc đã tổ chức các chương trình, lễ hội, các cuộc thi giao lưu ẩm thực, thi chế biến các món ăn từ ngô của các xã, thị trấn trên địa bàn huyện nhằm quảng bá, giới thiệu những nét văn hóa truyền thống và phong tục tập quán của đồng bào địa phương đến du khách trong và ngoài nước, tạo ra một cú hích cho du lịch huyện Mèo Vạc phát triển./.
Bài, ảnh: Nguyễn Thị Dịu