Quan điểm của đảng ta về bảo vệ và thực hiện chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa (phần II)
Xuất phát từ thực tế của đất nước, Đảng ta khẳng định để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức thì phải có cách thức hội nhập hiệu quả với khu vực và thế giới. Chúng ta cần thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để tranh thủ những nguồn lực bên ngoài kết hợp với các nguồn lực bên trong tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.
Bảo vệ vững chắc những gì cha ông để lại |
Nhận thức được tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết số 07 của Bộ chính trị khẳng định: Chủ động hội hập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
“Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức; phải có kế hoạch và lộ trình hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước”[1].
Tuy nhiên, Đảng ta cũng nhấn mạnh nguyên tắc của hội nhập: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”[2].
Giữ vững độc lập tự chủ thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đối phó thắng lợi với các thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập; chủ động lựa chọn cách thức tổ chức tham gia, xây dựng lộ trình hội nhập trong khuôn khổ quy định chung.
Nhận thức được tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế đối với đất nước, Đảng cũng nhấn mạnh nhiệm vụ gắn chặt nhiệm vụ xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó cho phép chúng ta khai thác tiềm năng bên ngoài và các nguồn lực bên trong. Đó cũng là bài học kinh nghiệm mà nhiều nước trên thế giới đã để lại: nếu không xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ, rất dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
Cột mốc trên A Pa Chải |
Thứ ba, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia và nền độc lập dân tộc trên cơ sở tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân là cội nguồn sức mạnh để chúng ta tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc rằng đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn của mọi thắng lợi. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo…”[3].
Nhằm cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, tư duy về đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta được phát triển lên một bước mới. Cụm từ “Đại đoàn kết toàn dân” được bổ sung, hoàn chỉnh thành “Đại đoàn kết toàn dân tộc” với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết không chỉ đối với nhân dân ta ở trong nước mà còn với cả cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Ở nơi một tiếng gà gáy 3 nước nghe thấy |
Từ tư duy đổi mới về vai trò của nhân dân, về vấn đề dân tộc trong thời kỳ mới, Đại hội X của Đảng khẳng định: “đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[4].
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ hai, sau thành tố về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đây chính là hai thành tố quan trọng, quyết định thực hiện thành công những nhiệm vụ căn cốt nhất của toàn Đảng và toàn dân ta trong nhiệm kỳ 2011 - 2015, đó là: đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một thành tố được nêu trong chủ đề của Đại hội IX và Đại hội X, nay khẳng định lại không chỉ để nhấn mạnh mà còn nhằm làm sáng tỏ hơn bản chất và nội dung của vấn đề thông qua thực tiễn đổi mới. Sức mạnh toàn dân tộc là sức mạnh của cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; sức mạnh của các thành phần kinh tế, các lực lượng chính trị, xã hội, các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài có cùng “mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”[5].
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng là sự kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện sự nhất quán kiên định tư tưởng chính trị và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh - tư tưởng chính trị và phương pháp cách mạng dựa trên sự bố trí các lực lượng xã hội, trên cơ sở vận dụng nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, quan điểm dân tộc vào thực tiễn Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”[6].
Thứ tư, bảo vệ chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới cần phải coi vì lợi ích quốc gia, dân tộc là mực tiêu của công tác đối ngoại.
Từ khi Đảng ra đời, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng ta. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI đã khẳng định “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế”.
Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX nhấn mạnh “bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc” là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm Đổi mới, đường lối đối ngoại Đại hội XI có những bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới, mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Đại hội XI cũng đặt mục tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở cơ bản để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó.
[1] Nguyễn Hoàng Giáp, Phan Văn Rân (2010), Chủ quyền quốc gia dân tộc của các nước trong toàn cầu hóa và những gợi ý cho Việt Nam ,tr.144
Đường dẫn bài viết: http://tamnhin.net.vn/quan-diem-cua-dang-ta-ve-bao-ve-va-thuc-hien-chu-quyen-quoc-gia-trong-boi-canh-toan-cau-hoa-phan-ii-75982.html
In bài viếtBản quyền thuộc về Báo điện tử Tầm nhìn