Năm tháng qua đi càng thêm yêu Hà Nội
Tôi may mắn được sống trong lòng Hà Nội từ tuổi ấu thơ, được đồng hành cùng Thủ đô thân yêu trong những tháng ngày mưa bom bão đạn của hai cuộc chiến, kết thúc là những ngày cả Thủ đô yêu dấu sáng bừng lên trong ca khúc khải hoàn.
Qua bao biến đổi thăng trầm lịch sử, Hà Nội trái tim của cả nước đã để lại dấu ấn, niềm tự hào trong mỗi người dân đất Việt và những người từ Thủ đô đi xa mỗi dịp trở về. Dù giờ đây thành phố đang trong công cuộc xây dựng kiến thiết để trở thành một thành phố, văn minh, giàu đẹp bền vững thì những giá trị văn hóa từ ngàn xưa, những con phố nhỏ, ngõ nhỏ, những mái nhà rêu phong cổ kính, những khu nhà tập thể tiện dụng thì với người Hà Nội sống trong môi trường nào cũng đều giữ được nét đẹp tinh tế của người Tràng An xưa.
Người Hà Nội cho dù không phải Hà Nội gốc, đang sống làm việc ở Hà Nội luôn có ý thức chấp hành chủ trương của thành phố về việc xây dựng Thủ đô văn minh xanh sạch đẹp xứng với tên gọi Thành Phố Vì Hòa Bình. Người Hà Nội ân cần chu đáo, có ánh nhìn trìu mến thân thiện, có giọng nói ấm áp nhẹ nhàng, có cử chỉ lịch thiệp, hào hoa đã để lại ấn tượng tốt đẹp với mọi người và với khách quốc tế. Đó là lý do khiến mỗi ngày, mỗi năm tháng qua đi tôi luôn tự hào và càng thêm yêu Hà Nội.
Tình yêu của tôi bắt đầu từ ký ức tuổi thơ trong sáng: Đó là buổi đầu cùng đám trẻ học những bài vỡ lòng tiếng Pháp trước Tam Bảo chùa Thần Quang (Ngũ Xã) vào hè năm 1953. Bảy thập kỷ trôi qua với biết bao đổi thay để khi trở về thăm lại con phố tuổi thơ lòng tôi bồi hồi nhớ lại Ngũ Xã thời xa xưa ấy. Ngày ấy nghe bà ngoại kể việc đúc pho tượng đồng – tượng Phật Tổ cao nhất Việt Nam hiện đang ngự trong Tam Bảo chùa Thần Quang, bức tượng này có nhiều vàng do phật tử thập phương và dân làng Ngũ Xã dâng cúng. Chùa thiêng, những ai thành tâm thì vàng tan chảy, người nào trong lòng còn luyến tiếc thì vàng cứ nổi trên mặt nồi nung… Pho tượng được đúc bởi bàn tay những nghệ nhân tài hoa trong làng Ngũ Xã. Lời bà kể đã khắc sâu trong trái tim tôi, giúp tôi biết yêu mến kính trọng những người lao động quanh mình. Một trong số người được dân làng kính trọng là nhà điêu khắc Nguyễn Hiếu – ông là bố đẻ của NSUT Thúy Hà và ca sĩ Hương Giang.
Ông Hiếu tốt nghiệp trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương, suốt ba năm ông cùng những nghệ nhân ưu tú dày công nghiên cứu tính toán làm khuôn mẫu để đúc nên bức tượng độc nhất vô nhị này. Nhà tôi cách nhà ông ba nhà, tôi từng say mê nhìn ngắm những bức tượng bằng thạch cao của ông và tôi thích nhất bức tượng mẹ và em trai út Thúy Hà đặt giữa phòng khách, bức tượng như có hồn, càng ngắm càng thấy như người thật! Tôi yêu nghệ thuật cũng từ những tiếp xúc tự nhiên ấy của một cô bé với nhà điêu khắc tài năng nhưng lại rất gần gũi, khiêm nhường giản dị.
Hình ảnh minh họa |
Làng Ngũ Xã ngày ấy là một bán đảo đường vào là con phố Ngũ Xã, trong bán đảo này còn mấy con phố nhỏ, đó là Mạc Đĩnh Chi, Trần Kế Xương, Nguyễn Khắc Hiếu và con đường bao quanh bán đảo tên Nam Tràng. Người Hà Nội thường gọi chung là làng Ngũ Xã hay dân Nam Tràng khi nhắc nhớ đến những người thợ đúc đồng ngày xưa ấy. Phố Ngũ Xã phía đầu dốc nối với phố Phó Đức Chính, đó là con đường dẫn tôi tới ngôi trường tuổi thơ đầy kỷ niệm yêu thương - trường Mạc Đĩnh Chi. Nơi tiếp giáp của phố Trần Kế Xương với Nguyễn Khắc Hiếu là một vùng đất um tùm cỏ tranh lau sậy men ra tới “ Bãi biển tuổi thơ” của chúng tôi.
Ở nơi đây mỗi chiều hè, bọn trẻ, đứa dưới nước bơi lội bì bõm, đứa trên bờ nghịch cát, thứ “ Cát” để chúng tôi vun lên thành những lâu đài thực ra là bùn tanh và than cám từ nhà máy điện Yên Phụ thải ra, thứ bụi này đã gây cho dân làng Ngũ Xã nhiều bức xúc bởi phơi phóng thì bụi than bám đen quần áo, đồ dùng, Than cám bay còn dính vào đầu vào mặt gây cảm giác ngứa ngáy khó chịu. Giờ trước một khuôn viên trong lành thoáng mát, cỏ cây hoa lá tươi xanh in bóng xuống mặt hồ nước lung linh tôi thấy tự hào vì sự đi lên của thành phố, của “Làng”.
Con phố Trấn Vũ mới mở sau qui hoạch, nhờ nó mà Ngũ Xã không còn là bán đảo cách biệt, chỉ cần đi trên đoạn đường hồ 500m là tới đường Thanh niên, ra vùng đất Tây Hồ huyền thoại trong tuổi thơ tôi. Từ đây nhìn sang phía bờ Tây rực màu hoàng hôn, nơi ấy tôi từng chứng kiến cảnh vòi rồng kinh dị trước cơn lốc, thâý những vệt sáng của sao băng lao vào đêm tối mênh mông đủ để tôi thầm ước điều gì đó cho mình, và những cánh chim bay không biết mỏi trong chiều hoàng hôn mờ dần phía trời xa. Những cánh chim đã trở thành nỗi nhớ khôn nguôi mỗi khi tôi rời xa Hà Nội, nỗi nhớ càng da diết khi những cánh chim đi vào âm nhạc, đó là những cánh Sâm cầm cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã nhắc tới trong ca khúc Nhớ Về Mùa Thu Hà Nội.
Hình ảnh minh họa |
Hà Nội thành phố thân yêu đã trở thành cảm hứng để giới văn nghệ sáng tác ra vô vàn tác phẩm để đời, những ca khúc khi hùng tráng, lúc ngọt ngào, lãng mạn, những bài ca sống mãi cùng năm tháng! Hà nội cũng là nguồn cảm hứng vô tận để các họa sỹ, những nhiếp ảnh gia vẽ, ghi lại những tác phẩm nổi tiếng với đủ sắc màu và Hà Nội cũng là nơi khơi nguồn cảm xúc sâu lắng đối với các nghệ sỹ tạc lên những bức tượng sống mãi với thời gian- Hà Nội của một thời đạn bom - Hà Nội Điện Biên Phủ trên không vẫn còn đó với bức tượng đài nổi tiếng nhất Việt Nam của nhà điêu khắc nguyễn Văn Tự trên phố Khâm Thiên.
Đây là bức tượng đài được tạo hình ngay sau khi họa sỹ chứng kiến cảnh tan hoang đổ nát của cả một dãy phố, nơi có ba ngôi nhà liền kề bị san bằng và bức tượng người phụ nữ bồng con chính là nguyên mẫu một người mẹ trẻ chết tức tưởi khi mới bồng con xuống đến chân cầu thang thì bị trúng bom! Đau đớn hơn, trong đó có nhà của thầy giáo tôi. Thầy tôi thoát được là do đang giảng dạy nơi sơ tán, tất cả những người thân yêu của thầy ở trong ngôi nhà đó đều đã ra đi trong trận bom hủy diệt.
Luôn cùng hồi ức trở về với những ngày tháng đáng nhớ là thói quen của người già. Và tôi thực sự hạnh phúc được đồng hành trong mỗi bước phát triển của Thủ Đô với nhiều kỷ niệm không thể nào quên- Từ con phố tuổi thơ thân yêu đến quầng phượng thắp lửa báo hiệu mùa hè thời còn cắp sách trên phố Hoàng Hoa Thám, từ con đường Nguyễn Du nồng nàn mùi hoa sữa tới sắc tím bằng lăng trên con phố Đào Tấn đã dẫn dụ tôi tìm về nơi định cư mới của mình, từ con đường Thanh Niên - nơi hò hẹn đầu đời đến tiếng còi tan tầm xưa của thời bao cấp, từ giọng nói ấm áp của chị phát thạnh viên báo máy bay đich đến tiếng bom rơi đạn xé trong 12 ngày đêm Hà Nội Điện Biên Phủ Trên Không… đến những công viên những con đường, những cây cầu, những đường hầm, những cao ốc trọc trời mới xây dựng sau này… để giờ được sống giữa những người dân giàu lòng yêu thương độ lượng nơi vùng đất thiêng mang tên đức Đại vương Linh Lang. Tôi mãn nguyện với nơi ở mới của mình.
Vùng đất thân yêu này với nét đẹp văn minh thanh lịch của cư dân sống trong mô hình làng trong phố đã cho tôi rất nhiều cảm xúc. Và tôi yêu thành phố của tôi, nơi hội tụ, kết tinh những giá trị và truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam bởi dẫu có đi đâu tôi vẫn luôn nhớ về. Ở thành phố này tôi chẳng phải nhọc lòng kiếm tìm cảm xúc vì cảm xúc nằm ngay trong trái tim tôi để mỗi ngày, mỗi năm tháng qua đi tôi càng thấy thêm yêu Hà Nội. “Dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội...”.
Dương Ngọc Vân