Bà Vũ Thị Sao Chi vi phạm liêm chính học thuật như thế nào?
Báo điện tử Tầm nhìn nhận được văn bản 946/CBC-TTPC ngày 11/8/2019 đề nghị kiểm tra thông tin, do có đơn của bà Vũ Thị Sao Chi – Phó Tổng biên tập tạp chí Ngôn ngữ phản ánh Báo điện tử Tầm nhìn đăng các bài: “Bà Vũ Thị Sao Chi – Phó Tổng biên tập tạp chí Ngôn ngữ: Từ vi phạm liêm chính đến “tham nhũng” học thuật” “ (đăng ngày 2/6/2019), bài “TS Vũ Thị Sao Chi, PTBT tạp chí ngôn ngữ vi phạm liêm chính học thuật – Kỳ 2: Không xử lý triệt để, vi phạm liêm chính học thuật còn kéo dài” (đăng ngày 4/6/2019) và bài “TS Vũ Thị Sao Chi – Phó Tổng biên tập tạp chí Ngôn ngữ: Bị phát giác thêm một vụ “ăn chặn” học thuật!” (đăng ngày 22/6/2019) có thông tin không đúng sự thật, vu khống và phản ánh không đúng về một số nghiên cứu khoa học của bà. Kèm theo văn bản này của Cục Báo chí là bản photo đơn đề nghị của bà Sao Chi gửi Cục Báo chí đề ngày 24/6/2019.
Để rộng đường dư luận và góp phần làm rõ sự thật bà Sao Chi có vi phạm hay không, vi phạm như thế nào, chúng tôi tiếp tục cung cấp các thông tin và phân tích kỹ về vi phạm của bà Sao Chi.
Nội dung 1: Bà Sao Chi sao chép và sử dụng ý tưởng nghiên cứu của người khác trong luận án TS
Hiện tại, ở Việt Nam, đã có một số trường đại học đưa ra những quy định rõ ràng về hành vi đạo văn trong nghiên cứu khoa học. Ở đây, chúng tôi xin nêu "Hướng dẫn số 2383/HD-ĐHQGHN” về việc thực hiện việc trích dẫn trong các ấn phẩm khoa học tại ĐHQG Hà Nội, ban hành ngày 27/7/2017. Theo đó, một trong số nhiều biểu hiện của hành vi đạo văn là “sao chép, biên dịch, trích dẫn nguyên văn hoặc diễn giải toàn văn đoạn văn hay ý tưởng".
Trong trường hợp luận án của bà Chi bảo vệ năm 2009 và bài viết “Nhịp điệu và các loại hình nhịp điệu”, (T/c Ngôn ngữ, số 1, 2008), có nhiều luận điểm trùng lặp với luận văn cao học có nhan đề “Thơ văn xuôi và nhịp điệu thơ văn xuôi” của học viên Lê Thị Hồng Hạnh, được bảo vệ trước đó (năm 2004) tại Trường ĐHSP Hà Nội.
1. Trước hết, cần khẳng định rõ việc chia tách nhịp điệu thành hai loại là nhịp lời và nhịp ý là kết quả nghiên cứu rất quan trọng và của riêng của bà Hạnh. Kết quả này tuy có những kế thừa nhất định từ những công trình nghiên cứu đi trước của một số tác giả nước ngoài, nhưng bà Hạnh là người đầu tiên chỉ ra thế lưỡng phân giữa nhịp lời và nhịp ý. Quan trọng hơn, bà Hạnh là người đầu tiên nêu ra tên gọi của hai khái niệm nhịp điệu này. Các tác giả đi trước, mặc dù có thể nêu ra những biểu hiện của nhịp theo ngữ nghĩa, nhưng chưa ai tách hai loại nhịp điệu này ra và đặt tên cho nó. Ngay chính TS Chi trong Luận văn năm 2003 của mình cũng chỉ dựa vào các tác giả đi trước như Henri Morier, Chatman để phân chia nhịp điệu thành hai loại “nhịp điệu tự nhiên” và “nhịp điệu nhân tạo” chứ chưa hề có ý tưởng gì về nhịp ý. Trong các phần giải trình của mình, TS Chi cũng không thể chứng minh được việc phân tách nhịp ý/nhịp lời và việc gọi tên các khái niệm này là các thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước mà bà Chi tham khảo.
Do đó, việc TS Chi không trích dẫn bà Hạnh trong cả bài viết năm 2008 và luận án năm 2009 là một biểu hiện rõ ràng của đạo văn theo Hướng dẫn nêu trên. Cần nói rõ là bà Chi và bà Hạnh cùng học cao học tại trường ĐHSP Hà Nội và có cùng thầy hướng dẫn, chỉ bảo vệ cao học cách nhau 1 năm. Do đó, không thể nguỵ biện rằng bà Chi khi viết luận án lại không biết đến luận văn của bà Hạnh hoặc bà Chi vô tình có ý tưởng trùng với nghiên cứu trước đó của bà Hạnh được!
2. Trong bài báo “Nhịp điệu và các loại hình nhịp điệu”, (T/c Ngôn ngữ, Số 1, 2008), không chỉ lấy lại ý tưởng nghiên cứu quan trọng của bà Hạnh, bà Chi còn lấy một số đoạn trích trong luận văn của bà Hạnh. Chúng tôi xin đơn cử chẳng hạn, trong mục 2.1.1, bà Hạnh viết: “Mỗi ngôn ngữ có cách tạo nhịp lời đặc thù. Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính. Do đó, về mặt hình thức, nó không tạo nhịp điệu bằng sự phối hợp các trọng âm từ hay bằng tương quan về độ dài âm tiết như trong các ngôn ngữ Ấn Âu…”. (trang 64). Trong bài viết năm 2008, bà Chi sửa “nhịp lời” bằng “nhịp điệu âm”, bỏ dấu chấm trước từ “do đó” và thay bằng… dấu phẩy v.v…
Đến mục 2.1.2, bà Chi nói về nhịp điệu ý với 3 biểu hiện là sự luân phiên, lặp lại của hình ảnh, sự trùng điệp của ý tưởng, và phép lặp cú pháp, lặp hệ hình. Đây cũng là 3 biểu hiện của nhịp điệu ý được công bố trước đó 4 năm của bà Hạnh. Cái khác của bà Chi chỉ là cách diễn giải và ví dụ minh hoạ cho các luận điểm này. Không dừng lại ở đó, chúng tôi nhận thấy có sự giống nhau đến kì lạ trong một số đoạn văn trong bài viết của bà Chi và luận văn công bố trước đó của bà Hạnh. Để minh hoạ, chúng tôi xin trích một đoạn văn trong luận văn của bà Hạnh ở trang 20:
“Phép lặp cú pháp còn được gọi là phép song hành cú pháp, thủ pháp song song, phép dùng cấu trúc sóng đôi... “Khi người nói muốn nhấn mạnh ý nghĩa một thông báo và để triển khai theo hướng đối lập hay bổ sung thì thường dùng phép điệp cú pháp hay sóng đôi cú pháp” [27; 235], nghĩa là sử dụng các câu có chung một kết cấu ngữ pháp. Phép điệp cú pháp có nhiều biến thể: điệp nguyên vẹn, điệp bộ phận, điệp có láy từ và không láy từ… Văn chương cổ điển sử dụng lặp cú pháp rất phổ biến trong phép đối (cách lặp lại cú pháp mà có sự đối chọi về từ, về thanh điệu…)
Nguyễn Du được coi là bậc thầy trong việc sử dụng phép song hành cú pháp. Theo PGS Nguyễn Thái Hoà, trong Truyện Kiều, cứ ba câu lại có một câu có tiểu đối. Ví dụ:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Trong bài viết của mình, cái "mới" của bà Chi là việc bỏ đoạn “Nguyễn Du được coi là bậc thầy trong việc sử dụng phép song hành cú pháp. Theo PGS Nguyễn Thái Hoà, trong Truyện Kiều, cứ ba câu lại có một câu có tiểu đối” và thay từ “ví dụ” bằng “thí dụ” (trang 20). Phần còn lại giống nguyên xi luận văn của bà Hạnh.
Theo quy định về trích dẫn và chống đạo văn của trường ĐHKHXH và NV (ĐHQG TPHCM) có hiệu lực từ tháng 1 năm 2018 thì đạo văn xảy ra khi người viết (1) sử dụng các đoạn văn, thông tin, số liệu, hình ảnh từ tác phẩm của người khác đưa vào tác phẩm của mình mà không chỉ dẫn nguồn gốc tác phẩm được trích dẫn; hoặc (2) khi người viết diễn giải đoạn văn, nội dung trong tác phẩm của người khác bằng ngôn ngữ của mình mà không trích dẫn nguồn gốc của tác phẩm được sử dụng; hoặc (3) khi người không dẫn nguồn đã trích khi thay đổi từ ngữ, di chuyển từ ngữ, câu, đoạn, ý tưởng của tác giả khác…
Trong trường hợp cụ thể này, bài viết được xem là điều kiện bắt buộc để bảo vệ Luận án của bà Chi đã vi phạm vào các biểu hiện đạo văn này: bà Chi đã hoàn toàn không dẫn nguồn bà Hạnh khi sử dụng các ý tưởng, đoạn văn, câu văn và từ ngữ trong luận văn cao học của bà Hạnh. Xin lưu ý thêm là các đoạn giống nhau này chỉ có trong bài báo của bà Sao Chi năm 2008, sau đó đã bị bà Chi loại bỏ ra ngoài trong luận án của mình.
Trong bài “Đạo văn trong luận án Tiến sĩ – cần xử lý nghiêm để bảo vệ liêm chính học thuật” trên báo Người đưa tin, tác giả bài báo còn nêu ra một số bằng chứng khác về việc luận án năm 2009 của bà Sao Chi chép gần như nguyên một số đoạn trong luận văn năm 2004 của bà Hạnh (link: https://www.nguoiduatin.vn/dao-van-trong-luan-an-tien-si-can-xu-ly-nghiem-de-bao-ve-liem-chinh-hoc-thuat-a441542.html)
Nội dung 2: Bà Sao Chi chèn tên mình thành đồng tác giả trong nhiều bài báo khoa học
Việc liên danh cộng tác nghiên cứu và viết bài là câu chuyện không hiếm trong nghiên cứu khoa học. Các đồng tác giả này thường phải là những người cùng tiến hành triển khai nghiên cứu từ đầu chí cuối từ việc cùng nhau hình thành các ý tưởng và vấn đề quan tâm, xây dựng các bộ công cụ nghiên cứu cho đến việc thu thập, phân tích tư liệu và viết bài.
Thế nhưng, việc cộng tác này hoàn toàn khác về bản chất so với việc biên tập một bài viết, do người biên tập của tạp chí thực hiện. Việc biên tập, dù nhiều hay ít, cũng chỉ nằm ở việc thay đổi, điều chỉnh câu chữ, ý tứ diễn đạt, hoặc các phần dẫn chứng với mục đích nhuận sắc cho bài viết của tác giả đó.
Do đó, một người biên tập hiển nhiên không có quyền chèn tên mình trở thành đồng tác giả với người viết bài dù với bất cứ lí do gì. Khoa học luôn sòng phẳng, liêm chính và công bằng.
Mấu chốt của câu chuyên vi phạm liêm chính học thuật khi bà Chi chèn tên mình vào một số các công trình khoa học của các tác giả khác là ở chỗ bà Chi chỉ là đơn thuần là người biên tập và duyệt bài chứ không hề có đóng góp với tư cách là đồng tác giả. Có thể giải thích rõ vấn đề này theo 4 điểm chính dưới đây:
Thứ nhất, các bài báo trên thực chất là các nội dung được rút ra từ luận án và luận văn của các tác giả trên. Bà Chi không hề tham gia hướng dẫn khoa học các học viên và nghiên cứu sinh đã được nêu. Cụ thể, học viên Nguyễn Huệ Yên do ông Hà Quang Năng hướng dẫn, học viên Phạm Thị Thu Thùy do ông Nguyễn Đức Tồn hướng dẫn, NCS Nguyễn Thị Thanh Huệ do ông Phạm Hùng Việt hướng dẫn, học viên Nguyễn Thị Thanh Tâm do ông Nguyễn Thái Hòa hướng dẫn v.v...
Thứ hai, bản thân những người hướng dẫn của các học viên và NCS này cũng bày tỏ sự phẫn nộ và không đồng tình với việc bà Chi tự ý đứng tên chung với học trò của họ. Ông Hà Quang Năng khẳng định: "Luận văn của chị Huệ Yên là do một mình chị ấy thực hiện từ đầu đến cuối dưới sự hướng dẫn của tôi trong 2 năm từ 2006-2008. Chính chị Huệ Yên cũng đã khẳng định luận văn ấy là do chị thực hiện một mình". Ông Phạm Hùng Việt cho rằng: "Không thể vì biên tập có sửa chữa ít hay nhiều mà người biên tập có quyền, bằng cách này cách khác, đưa tên của mình thành đồng tác giả, thậm chí là tác giả chính của bài báo".
Thứ ba, cần phải khẳng định rõ trong các luận án và luận văn, các tác giả đều cam kết đây là công trình nghiên cứu của riêng họ. Do đó, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và có thể sẽ bị tước bằng cấp nếu những lời cam đoan của họ là không đúng sự thật. Còn việc bà Chi chèn tên mình vào trong các bài báo rút ra từ luận văn và luận án không do bà hướng dẫn là sự tước đoạt thành quả khoa học của người khác. Ở đây, bà Chi không chứng minh được đóng góp của mình với tư cách là đồng tác giả (chúng tôi nhấn mạnh) vào các bài báo nêu trên. Việc bà Chi trưng ra các giấy xác nhận đồng tác giả hay các thư từ trao đổi với học viên hoàn toàn không làm thay đổi được bản chất của vấn đề. PGS Hoàng Dũng (ĐH Sư phạm TPHCM) đã nói nhận định rất xác đáng về trường hợp này: "Không thể đối xử công trình khoa học như người nông dân trồng khoai; thu hoạch xong là có thể đem khoai tặng bố mẹ hay bất cứ ai mình có cảm tình. Tên tác giả được ghi ngay trên bài báo đã công bố và không thể “chuyển nhượng”. Nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Công cũng có ý tương tự khi cho rằng đây không phải là chuyện trao đổi theo kiểu con cá mớ rau: "Trong nghiên cứu khoa học cũng như thi cử, một khi hành vi sao chép, quay cóp bài của người khác bị nghiêm cấm, thì bất kể hành vi đó có được chủ nhân đồng ý hay không, đều vi phạm liêm chính học thuật cũng như quy chế thi cử. Thậm chí, nếu thí sinh A đồng ý, hoặc chủ động để thí sinh B quay cóp bài, thì cả hai sẽ bị xác định là phạm quy".
Thứ tư, còn những trường hợp "đồng tác giả" khác mà bà Chi lờ đi không trưng ra cái gọi là bằng chứng về đóng góp của mình. Chỉ đơn cử, đóng góp của bà Chi ở đâu trong hai bài báo “Về mối quan hệ giữa ẩn dụ tri nhận - ẩn dụ từ vựng - ẩn dụ tu từ” (Tạp chí khoa học số 7 (2014) Viện Đại học Mở) và “Về các khái niệm ẩn dụ tri nhận, ẩn dụ từ vựng và ẩn dụ tu từ” (tạp chí “Khoa học xã hội Việt Nam” số 4 năm 2016) mà bà liên danh với... ông Nguyễn Đức Tồn? Hai bài báo này thực chất là ông Tồn "tự đạo văn" từ các tác phẩm đã xuất bản trước đây của ông. Bỗng nhiên, bà Chi lại hiên ngang "liên danh" với ông thầy của mình. Trong trường hợp này, ông Tồn cần phải kí thêm một tờ giấy xác nhận cho các "món hàng dùng chung" này với bà Chi. Điều đó chúng tôi tin là dễ như ăn kẹo.
Đạo văn là chuyện giấy trắng mực đen. Những gì bị đạo văn (ăn cắp thành quả chất xám) không thể phi tang hoặc tự hủy trong hữu hạn thời gian, chúng tồn tại công khai, mãi mãi, ai cũng có thể kiểm tra được. Đạo văn không khó xác định: công trình A xuất bản trước, công trình B xuất bản sau mà giống ý tưởng, câu chữ công trình A thì công trình B bị buộc tội đạo văn.Theo thông lệ, khi báo chí phát hiện đạo văn, người bị tố đạo văn (tác giả công trình B) chỉ có thể minh oan cho mình bằng cách đưa ra tài liệu chứng minh là công trình của mình (hay một dạng nào đó của nó) ra đời trước công trình A. Đó là điều mà công luận muốn bà Sao Chi làm, nếu bà cho rằng bị oan.
Báo chí phanh phui đạo văn là tố cáo việc ăn cắp chất xám, phù hợp với Điều 26 của Luật tố cáo mới (2018), không cần phải làm việc với người bị tố cáo đạo văn:
“Điều 26. Tiếp nhận, xử lý tố cáo do cơ quan báo chí, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển đến
1. Khi nhận được tố cáo của cá nhân do cơ quan báo chí, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển đến thì cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận có trách nhiệm tiến hành phân loại và xử lý như sau:
a) Trường hợp tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết và đủ điều kiện thụ lý thì thụ lý tố cáo; trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết thì chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết;
b) Trường hợp tố cáo không đủ điều kiện thụ lý theo quy định tại Điều 29 của Luật này thì không thụ lý; trường hợp tố cáo không đủ điều kiện thụ lý nhưng có nội dung, thông tin rõ ràng về người có hành vi vi phạm, có tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tiến hành việc thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền phục vụ cho công tác quản lý”.
2. Kết quả xử lý tố cáo theo quy định tại khoản 1 Điều này được thông báo bằng văn bản cho cơ quan báo chí, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đã chuyển tố cáo trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố cáo.
Như vậy, theo Điều 26 của Luật tố cáo (2018), khi nhiều báo chí đã tố cáo hành vi đạo văn, ăn chặn học thuật thì các cơ quan có thẩm quyền là Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và Viện Ngôn ngữ học (nơi bà Sao Chi công tác) cần phải có trách nhiệm xử lí nghiêm, không thể để vụ việc kéo dài nhiều năm gây bức xúc. Có như vậy mới bảo vệ được uy tín cho Viện, cho ngành, trả lại sự công bằng, đem lại lòng tin cũng như ham muốn cống hiến cho các nhà khoa học.
Nhóm PV