Khẩn cấp lưu ý Hội đồng bảo an LHQ về tình huống Trung Quốc đe doa hòa bình, an ninh khu vực tại Biển Đông (phía nam Trường Sa)
Đã gần 2 tháng nay và trong những ngày này, biển Nam Trường Sa của Việt Nam đang bị Trung Quốc xâm phạm, dùng vũ lực áp chế, quấy nhiễu với sự hiện diện của tầu thăm dò địa chấn HĐ 08, 5 tầu hải cảnh và nhiều tầu dân quân biển vũ trang. Họ cho rằng vùng biển này là thuộc về Trung Quốc từ lâu đời, Trung Quốc có ‘quyền lịch sử’ ở đây; đây là vùng biển ‘lưỡi bò’ nằm trong đường 9 đoạn ở Biển Đông do họ tự vạch ra.
Bài viết này vạch trần sự dối trá về lập luận và sự vô pháp về hành động của nhà cầm quyền Trung Quốc với dã tâm chiếm đoạt tài nguyên biển và không gian biển, một lợi ích sống còn của Đất nước Việt Nam. Đồng thời, bài viết này đề xuất một số giải pháp khẩn cấp về ngoại giao và pháp lý với mong muốn tư vấn cho Chính phủ Việt Nam trong tình thế đất nước nguy nan như hiện nay.
- Xâm chiếm Biển Đông – Trung quốc lợi dụng Luật quốc tế như thế nào.
Trung Quốc lợi dụng khái niệm - học thuyết về ‘danh nghĩa lịch sử’ (‘quyền lịch sử’).
Trung quốc yêu sách chủ quyền đối với hầu hết toàn bộ Biển Đông được giới hạn bởi đường 9 đoạn, và gần đây là 10 đoạn, thể hiện trên bản đồ do Trung quốc công bố với lý do toàn bộ vùng biển nằm phía trong đường 9 đoạn ở Biển Đông là thuộc chủ quyền của Trung Quốc dựa trên danh nghĩa là ‘quyền lịch sử’.
Học thuyết về quyền lịch sử đã được không ít quốc gia viện dẫn như là căn cứ để khẳng định yêu sách về chủ quyền đối với vùng nước của Vịnh có địa mạo lấn sâu vào đất liền của một hoặc nhiều quốc gia, với cửa Vịnh lớn hàng chục, hàng trăm hải lý. Có thể liệt kê một số Vịnh đã hoặc có thể mang danh nghĩa lịch sử như sau: Vịnh Chasepeak (Hoa kỳ), Vịnh Candal, Grandville (Pháp), Vịnh Chaleur (Canada), Vịnh El-Arab (Ai cập), Vịnh Hudson (Canada), Vịnh Laholm và Skendevikel (Thụy điển), v.v.
Học thuyết về quyền lịch sử đối với vùng nước của Vịnh khởi nguồn từ đầu thế kỷ XIX được các quốc gia có Vịnh sử dụng nhằm khẳng định chủ quyền của quốc gia ven bờ. Vùng nước Vịnh lịch sử thường được tuyên bố là Vùng Nội thủy, hoặc Lãnh hải của quốc gia ven Vịnh, có chế độ pháp lý như chủ quyền đối với đất liền. Lập luận của các chuyên gia luật quốc tế, của các thẩm phán Tòa Trọng tài Thường trực, cũng như của Tòa án quốc gia khi xem xét các vụ tranh chấp về danh nghĩa lịch sử của Vịnh thường tập trung vào một số chứng cứ chủ yếu như sau: thời gian sử dụng và chiếm hữu Vùng nước Vịnh, ý nghĩa lịch sử về mặt kinh tế và chính trị của vùng nước Vịnh đối với quốc gia ven Vịnh, thái độ của các quốc gia khác về hành vi và căn cứ yêu sách của quốc gia đòi hỏi danh nghĩa lịch sử đối với Vịnh.
Công ước Luật Biển năm 1982, tại Điều 10.6. có nhắc đến khái niệm ‘vịnh lịch sử’, mà không có quy định nào khác về ‘vịnh lịch sử’ hay ‘vùng nước, vùng biển lịch sử’. Như vậy, khái niệm ‘danh nghĩa lịch sử’ hay ‘quyền lịch sử’ không chính thức được pháp điển hóa và quy định theo Luật Biên quốc tế. ‘Quyền lịch sử’ chỉ được sử dụng trong các yêu sách của các quốc gia ven một Vịnh cụ thể đòi hỏi để xác định chủ quyền đối với vùng nước Vịnh với chế độ pháp lý của vùng Nội thủy, hoặc Lãnh hài.
Lập luận của Trung Quốc dựa trên cái gọi là ‘quyền lịch sử’ để yêu sách chủ quyền của họ trên toàn bộ Biển Đông – là một là hành vi đối ngoại đơn phương, bất chấp lý lẽ và Luật pháp quốc tế. Khi đưa ra yêu sách đòi chủ quyền với hầu hết Biển Đông nằm trong đường 9 đoạn, Trung quốc đã được đề nghị giải thích và làm rõ tọa độ trên hải đồ, Trung quốc đáp lại một cách lơ mơ – đó là ‘quyền lịch sử’, mà không hề đưa ra được bất kỳ căn cứ nào để chứng minh.
Xét dưới góc độ Luật Biển quốc tế, yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông – là hoàn toàn không có căn cứ, hoàn toàn không dựa vào bất cứ quy định nào của Công ước Liên Hợp Quốc năm 1982. Trung Quốc cố tình lập lờ vận dụng học thuyết về ‘danh nghĩa lịch sử’ để áp đặt các quốc gia ven Biển Đông một yêu sách vô lý về Vùng biển nằm trong đường 9 đoạn ở Biển Đông.
Không chỉ lập lờ đánh tráo khái niệm về ‘quyền lịch sử’ để tuyên bố độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã và đang ráo riết thực hiện các hành vi dùng vũ lực, răn đe yểm trợ cho các hoạt động xâm phạm không gian quyền chủ quyền, xâm phạm tài nguyên thủy sản, dầu khí của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia.
Tàu Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm vùng biển Việt Nam |
Tháng 5/2017 Trung Quốc đã đưa tầu hải cảnh 3511 quấy nhiễu hoạt động thăm dò dầu khí của Malaysia tại vùng biển phái Nam Biển Đông, từ đầu tháng 6/2017 cho đến nay, ít nhất 5 tầu hải cảnh và nhiều tầu dân quân biển của Trung Quốc vẫn đang ngày đêm quần đảo, quấy nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam tại lô 06.1. phía Nam Côn Sơn, tây bắc bãi Tư Chính; Vùng biển Bãi Tư Chính ngày càng dày đặc thêm với các tầu dân quân biển cùng các tầu hải cảnh của Trung quốc hộ tống tầu thăm dò địa chấn HĐ 08, uy hiếp các tầu cảnh sát biển của Việt Nam.
Cũng cần phải nhắc lại sự kiện dàn khoan HD 981 được Trung Quốc đưa vào vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam năm 2014. Trước sự phản ứng mạnh mẽ của Nhân dân Việt Nam, họ đã phải rút lui. Nhưng sau đó, năm 2017 rồi năm 2018, họ liên tiếp đe dọa dùng vũ lực gây sức ép buộc Chính Phủ Việt Nam phải nhượng bộ, hủy bỏ hợp đồng thăm dò dầu ký đã ký kết với công ty Repsol (Tây Ban Nha).
Những hành động này của Trung Quốc là những hành vi đe dọa dùng vũ lực chống lại độc lập chủ quyền của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế được quy định tại Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Tòa Trọng tài Thường trực La Hague ngày 12/7/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc đã bác bỏ lập luận của Trung Quốc về ‘quyền lịch sử’ tại Biển Đông. Tòa Trọng tài Quốc tế đã phán quyết rất rõ ràng: yêu sách của Trung Quốc về vùng biển nằm trong đường 9 đoạn do Trung Quốc là không có cơ sở pháp lý, không phù hợp với Công Ước Luật Biển năm 1982.
Trung Quốc lợi dụng Công ước Luật Biển năm 1982 đòi chủ quyền ở các vùng biển chưa bao giờ thuộc về Trung Quốc.
Cùng với Việt Nam là thành viên của Công ước Luật biển năm 1982*[1], nhưng Trung Quốc không nghiêm chỉnh tuân thủ các quy định của Công ước này. Như vậy, Trung Quốc đã và đang vi phạm một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế - Nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Liên Hợp quốc phải nghiêm chỉnh và thiện chí tuân thủ cam kết quốc tế (nguyên tắc Pacta Sunt Servanda).
Năm 1996, Quốc hội Trung Quốc đã thông qua Luật Lãnh hải và Vùng tiếp giáp, quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả 4 quần đảo ở Biển Đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Năm 1998, Trung Quốc ban hành Luật về Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, khẳng định cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng mà Trung Quốc gọi là “vùng nước phụ cận”.
Đây là hành vi vi phạm nghiêm trọng Luật Biển Quốc tế. Yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường sa chưa bao giờ được Việt Nam và các nước ven Biển Đông chấp nhận. Hơn thế nữa, Trung Quốc đã dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ các đảo ở Hoàng Sa và một số đảo, bãi cạn mà Việt Nam quản lý. Việc dùng vũ lực để dành danh nghĩa chủ quyền đối với lãnh thổ các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa – là hoàn toàn không phù hợp với Luật quốc tế, và không mang lại cho danh nghĩa chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo, bãi cạn này. Do đó, dù có lợi dụng quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 về các vùng biển, việc Trung Quốc ban hành Luật năm 1996 và năm 1998 về các vùng biển – là hoàn toàn trái với nguyên tắc Pacta Sunt Servanda được quy định tại điều 2 của Hiến Chương Liên Hợp quốc.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phát biểu về quan điểm của chính phủ Việt Nam về chủ quyền biển đảo |
Không chỉ mượn Luật Biển Quốc tế để làm thành luật quốc gia nhằm tạo căn cứ cho yêu sách chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc còn sử dụng quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 để biện minh cho hành vi xâm chiếm vùng biển của Việt Nam, giải thích bóp méo quy định của Công ước Luật Biển. Trong văn bản trình ra Liên Hợp Quốc ngày 8/6/2014, Trung Quốc cho rằng: “giàn khoan doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện các hoạt động trong Vùng tiếp giáp của Trung Quốc tại Hoàng Sa”. Trước đó, Trung Quốc tuyên bố rằng giàn khoan 981 nằm trong Vùng lãnh hải của Trung Quốc, cách đảo Tri tôn 17 hải lý, nay lại tuyên bố rằng giàn khoan nằm trong Vùng tiếp giáp.
Việc sử dụng những khài niệm ‘Lãnh hải’, ‘Vùng tiếp giáp’ theo ngôn từ của Công ước Luật Biển năm 1982 – dường như thể hiện Trung Quốc đang nghiêm chỉnh tuân thủ Luật Biển quốc tế. Tuy nhiên, cần phải thấy rõ một số điểm quan trọng như sau: i) đảo Tri tôn, một bãi cạn nằm trong quần đảo Hoàng Sa, cũng như cả quần đảo Hoàng Sa – chưa bao giờ Trung Quốc có được danh nghĩa chủ quyền theo Pháp luật quốc tế và Luật Biển quốc tế; ii) đảo Tri tôn – là một bãi cạn được kiến tạo nhờ các rạn san hô – không đủ điều kiện duy trì đời sống độc lập, và vì thế không thể có hiệu lực trong việc xác định vùng lãnh hải bao quanh (Điều 13.2) Công ước Luật Biển năm 1982.
Giáo sư Carlyle A. Thayer đã nhận xét như sau về việc Trung Quốc lợi dụng luật pháp quốc tế:
“Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc đã được gửi đến Liên Hiệp Quốc để đánh bật các nỗ lực tuyên truyền và để cô lập Việt Nam. Đại đa số các thành viên của Liên Hiệp Quốc đều không có lợi ích trực tiếp trong cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Nhiều nước Đông Nam Á vốn e ngại các hành động của Trung Quốc, sẽ né tránh khi bị buộc phải công khai bày tỏ lập trường về vấn đề này.
Chiến lược pháp lý, theo Walton, là một chiến lược sử dụng luật pháp Trung Quốc và quốc tế để tôn cao nền tảng pháp lý của việc Trung Quốc khẳng định quyền lợi của mình. Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc đầy rẫy những dẫn chứng trong luật pháp quốc tế được chọn lọc để hỗ trợ cho lập trường của Trung Quốc.”[2]
- Chủ quyền với biển đảo sẽ mất – nếu không tiến hành ngay những hành động ngoại giao và pháp lý.
Năm 2014, khi đưa dàn khoan HD-981 vào vùng Đặc Quyền Kinh tế của Việt Nam, thì ngày 8/6/2014 Trung Quốc phát hành Tài liệu lưu hành tại Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc tới đại diện của 193 quốc gia thành viên, vu khống Việt Nam khiêu khích, gây đâm va tầu thuyền của Trung Quốc 1416 lần và đưa ra một số chứng cứ thể hiện Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Lần này năm 2019, trong khi tầu thăm dò địa chấn HĐ 08 với sự yểu trợ của các tầu hải cảnh, tầu dân quân biển của Trung Quốc đang quần đảo tại vùng biển Bãi Tư Chính thuộc Vùng Đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa của Việt Nam, thì Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung quốc cũng lại lớn tiếng yêu cầu “Việt Nam tôn trọng quyền và chủ quyền hợp pháp của Trung Quốc”.
Những hành vi này thể hiện dã tâm của Trung Quốc quyết xâm chiếm cho bằng được Hoàng Sa, Trường sa và các vùng biển của Việt Nam.
Đấu tranh với Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông phải kết hợp tất cả các giải pháp chính trị, thể chế, ngoại giao, pháp lý, năng lực quốc phòng, quan hệ quốc tế. Không thể xem nhẹ bất kỳ một giải pháp nào.
Bài viết này đề cập đến những giải pháp ngoại giao và pháp lý mà Chính phủ Việt Nam nên lựa chọn như quyết sách ưu tiên khẩn cấp nhằm xử lý ngay tình huống hiện nay ở vùng biển Bãi Tư Chính phía nam Trường Sa như sau:
- Chính phủ Việt Nam cần khẩn trương gửi Công hàm tới Hội đồng Bảo An lưu ý về tình huống gây đe dọa hòa bình và an ninh khu vực hiện nay tại vùng biển nam Trường Sa theo quy định tại các Điều 33.1, 34 và 35 Hiến Chương LHQ. Đấu tranh ngoại giao của Việt Nam sẽ được coi là thành công, miễn là vấn đề này được chấp nhận đưa vào Chương trình nghị sự của HĐBA và thảo luận tại HĐBA LHQ. Mục đích này không khó đạt được, bởi lẽ theo Điều 27.2. Hiến Chương LHQ, việc đưa vấn đề về ‘tình huống do hành vi của TQ đang gây ra tại vùng Biển Nam Trường Sa đe dọa hòa bình, an ninh khu vực” vào Chương trình Nghị sự của HĐBA sẽ chỉ cần hội đủ 09 phiếu ủng hộ của các thành viên HĐBA. Như vậy sẽ không có cơ hội cho TQ sử dụng quyền phủ quyết.
- Chính phủ Việt Nam cũng có thể đưa vấn đề về tình huống tại vùng biển Nam Trường Sa ra trước Đại hội đồng LHQ trong kỳ họp vào tuần thứ Ba của Tháng 10 năm 2019. Sử dụng biện pháp này, đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn trong việc vận động ngoại giao với các nước thành viên LHQ so với những nỗ lực ngoại giao chỉ cần tập trung vào các nước Anh, Hoa kỳ, Pháp, Nga (?) và các nước thành viên không thường trực (Bỉ, Bờ biển Ngà, Dominica, Ghi nê Xích đạo, Đức, Indonesia, Cô-oet, Pêru, Ba Lan, Nam Phi) của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc có thể dùng tiền bạc và ảnh hưởng của mình để tác động lên nhiều thành viên khác của LHQ tại Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc, thách thức nỗ lực của Việt Nam.
- Đồng thời với việc thực hiện một trong hai hành động nêu trên, Chính phủ Việt Nam cần khẩn trương hoàn thiện hồ sơ khởi kiện ngay Trung Quốc ra trước Tòa án Luật Biển Quốc tế theo quy định tại Phụ lục VII. Công Ước Luật Biển năm 1982.Nhanh chóng quyết định khởi kiện Trung Quốc ra trước Tòa án Luật Biển quốc tế.
Việt Nam đã rất kiềm chế, nhún nhường với TQ trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Việt Nam càng nhún nhường, thì TQ càng lấn tới, phủ nhận mọi cam kết đã đạt được theo thỏa thuận cấp cao giữa lãnh đạo hai nước, thể hiện dã tâm nhất quán thôn tính biển đảo và lãnh thổ Việt Nam. Thực trạng này diến biến đã tới đỉnh điểm, vượt quá sức chịu đựng của những người Việt Nam yêu nước.
Do vậy, việc Chính phủ Việt Nam đưa ‘tình huống’ tại vùng biển Bãi Tư Chính ra trước HĐBA LHQ sẽ mang lại niềm tin và hy vọng cho Nhân dân. Chắc chắn Đảng và Chính phủ sẽ có chiến lược, sách lược phù hợp trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại các vùng biển. Làm được như vậy, một lần nữa như bao lần trong suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử của Việt Nam, TÍNH CHÍNH DANH VÀ SỰ THÀNH CÔNG CỦA NHỮNG NGƯỜI CẦM QUYỀN sẽ bền vững khi gắn kết được với LÒNG YÊU NƯỚC CỦA NGƯỜI DÂN.
LS.TS. HOÀNG NGỌC GIAO
Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển (PLD)
1* Việt Nam phê chuẩn Công Ước ngày 25 tháng 7 năm 1994 và Trung Quốc hai năm sau đó vào ngày 7 tháng 6 năm 1996.
2*Carlyle A. Thayer, Posted on 19/06/2014 by The Observer Nguồn: The Diplomat/ RFI