Chuyện cảm động về nghị lực phi thường của một nữ thương binh
Về Trung tâm điều dưỡng thương binh Thuận Thành, Bắc Ninh, gặp những nhân chứng một thời xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, thật cảm động khi nghe những câu chuyện về những chiến công, lòng quả cảm của những chiến sĩ trên chiến trường đạn lửa năm xưa, những tấm gương thương binh nỗ lực vượt lên số phận “tàn nhưng không phế”. Và cảm động hơn về câu chuyện của nữ thương binh Trần Thị Hồng (quê Hà Tĩnh, một trong những nữ thương binh nặng hạng A, tỉ lệ thương tật 92%, bị mất cả hai tay khi tham gia chiến đấu, mở đường Trường Sơn năm xưa.
Giữa sức nóng của chiến trường lửa đạn những năm 60, không chỉ có các chàng trai vào chiến trường mà cả những cô gái cũng xông pha trận tuyến. Các chị đi tham gia thanh niên xung phong, mang theo khí thế hừng hực của tuổi trẻ, không tiếc máu xương ra trận để gúp sức giải phóng quê hương, đất nước. Bà Trần Thị Hồng là một trong những cô gái dũng cảm ấy. Bà ra trận đã hiến một phần máu xương cho độc lập dân tộc. Trở về với thân thể không còn lành lặn nhưng bà lại là một anh hùng chiến thắng hoàn cảnh, chống lại bệnh tật và cuộc sống khó khăn, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, nuôi dạy những đứa con ngoan ngoãn, trưởng thành.
Chứng kiến cảnh quê hương bị giặc Mỹ ném bom, bắn phá dữ dội, cướp đi sinh mạng bao người dân vô tội. Bà thấy căm thù giặc vô cùng. Năm 1963, đang học cấp 3, thì bà quyết định bỏ học, gác lại mọi ước mơ, hoài bão của tuổi trẻ để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Bà hăng hái tham gia thanh niên xung phong vào miền Nam mở đường Trường Sơn- tuyến đường vận tải quân sự chiến lược của ta.
Ngày ra trận, bà không nghĩ đến sự mất mát, hy sinh mà chỉ mong muốn đóng góp sức lực nhỏ bé của mình cho công cuộc đấu tranh giành hoà bình cho đất nước, cho quê hương không còn cảnh bom rơi, lửa đạn. Không may trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968, bà bị thương trong một trận bom của địch bất ngờ dội xuống đúng cung đường mà đơn vị của bà đang san lấp, bà bị mất cả hai cánh tay.
Bà Trần Thị Hồng |
Trong ký ức của nữ thương binh ở cái tuổi ngoài gần 80 này, nỗi đau mất 2 cánh tay vẫn còn hiện hữu như mới vừa hôm qua. Bà nhớ lại: Bị trúng bom, bà ngất đi, được đồng đội đưa đi cấp cứu ở viện 12, Binh trạm 12. Lúc tỉnh dậy, bà thấy đôi cánh tay không còn, bà khóc suốt mấy ngày liền vì nghĩ mình đã trở thành người tàn phế, không được cùng đồng đội chiến đấu ở chiến trường và bao hoài bão tương lai phía trước cùng lời hẹn ước với người yêu cũng không thể thực hiện. Được chị em đồng đội động viên, chia sẻ, nhất là người yêu của bà- ông Hoàng Văn Uyên, người cùng quê Hà Tĩnh cùng làm nhiệm vụ ở cung đường Trường Sơn, đã giúp bà vượt qua đau thương, mất mát, ổn định tinh thần.
Thời chiến, tình yêu của 2 người gặp nhau lần nào cũng vội. Vậy mà, tình yêu ấy rất sâu nặng…
Trong thời gian nằm điều trị tại Bệnh viện 14, Binh trạm 12, trước khi bà Hồng được điều chuyển ra Bắc, ông Uyên đã đến thăm người yêu và nói những lời hẹn ước. Ông Uyên nhớ lại: "Giờ phút chia tay, Hồng vẫn nằm trên cáng. Tôi có khoảng 30 phút để sẻ chia, động viên, an ủi Hồng. Tôi đã nói: Em cứ yên tâm, thế nào anh cũng đưa em về thăm mẹ!… Hồng chỉ rưng rưng nước mắt, nghẹn ngào không nói nên lời".
Sau cuộc chia tay ấy, ông Uyên tiếp tục chiến đấu ở Trường Sơn, còn bà Hồng được chuyển binh đoàn 12, Sư đoàn 559 để điều trị, sau đó về Trại điều dưỡng thương binh 1 ở Ba Vì. Chiến tranh ác liệt, không biết sống chết ra sao, nhưng lời hứa của ông bà vẫn ấp ủ. Trong hoàn ảnh ấy, chuyện tình của hai người tưởng chừng mong manh, không có ngày gặp lại. Vậy mà, thật bất ngờ, giữa năm 1969, ông Uyên đã ra Bắc tìm bà để thực hiện lời hứa, lời hẹn ước năm nào.
Tuy nhiên, khi ông đề nghị xây dựng gia đình cùng bà, thì bà lại từ chối do mặc cảm với thương tật, hoàn cảnh. Bà bảo với ông: “Em bị thương tật nặng, mất cả hai tay không làm gì được. Anh đi tìm hiểu người khác …” Nhưng ông không nghe, mà nhất quyết gắn bó cuộc đời để che chở, xoa dịu những đau thương, mất mát cho người yêu. Ông nguyện sẽ làm đôi tay cho bà. Sau nhiều lần ông thuyết phục, động viên, bà đã xoá được mặc cảm và đồng ý cùng ông về quê làm đám cưới. Thế nhưng, đám cưới của hai người cũng phải dấu diếm tổ chức ở quê bà, vì gia đình ông Uyên phản đối không đồng ý cho ông lấy một người vợ tàn phế như vậy.
Sau ngày cưới, ông trở về với cung đường Trường Sơn, còn bà trở ra Bắc tiếp tục điều dưỡng. Hạnh phúc của hai người lại đặt vào thử thách không dễ gì vượt qua. Đất nước thống nhất, ông được chuyển ngành về Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình công tác, vẫn phải sống trong cảnh chồng Nam, vợ Bắc. Ông Uyên dính bom gần, chịu sức ép, bị nặng tai nên xin ra quân. Mãi 8 năm sau ông mới được chuyển vể ở cùng bà tại TTĐDTB Thuận Thành, làm công việc sửa xe lăn, phục vụ cơm nước cho TBB thì vợ chồng mới được đoàn tụ.
May mắn, cuộc đời mỉm cười với bà, khi bà lần lượt sinh được 2 cậu con trai khôi ngô, kháu khỉnh. Nhưng đó cũng là một thử thách lớn với bà, khi không còn đôi tay. Với sự nỗ lực của bản thân cùng sự giúp sức của người chồng và người thân, bà đã làm tròn bổn phận của một người mẹ. Tuy cuộc sống đầy khó khăn, thử thách nhưng bằng tình yêu thương, bằng sự hy sinh cao cả của chồng, bà đã vượt qua tất cả, cùng anh vun đắp cho tổ ấm hạnh phúc của mình. Mặc dù mất đi cả 2 tay nhưng bà Hồng vẫn thoăn thoắt làm những công việc nội trợ, làm nông, chăm sóc chồng con và các cháu khôn lớn trưởng thành.
Thời còn bao cấp, kinh tế đất nước khó khăn, đồng lương trợ cấp thương binh của bà và phụ cấp của ông ít ỏi không đủ trang trải cuộc sống, nuôi các con ăn học. Bà đã lên tận Thái Nguyên mua chè mạn về bán kiếm tiền nuôi con ăn học. Với người bình thường, đi buôn bán như vậy đã khó khăn, vất vả, nhưng với một người mất hai tay như chị thì khó khăn, vất vả gấp trăm lần. Những ngày trái gió, trở trời, vết thương hành hạ, đau quặn người hay những ngày mưa to, gió bão, người ta vẫn thấy bà đều đặn hàng ngày ngồi ở đầu chợ Trục, chợ Nộm (Thuận Thành) bán chè. Khách mua chè của bà phải tự cân, tự bỏ tiền vào túi chị đeo ở hông. Còn những lúc lên Thái Nguyên lấy chè về bán, bà thường thuê xe ôm chở ra bến xe, nhờ người mang lên xe, khi về nhà thì chồng và con ra đón để chở hàng về.
Bà thường nhắc nhở các con rằng, mẹ bị khuyết tật, bố ôm đau thường xuyên, sự nghiệp, ruộng đất, nhà cửa không có, các con phải cố gắng học hành thành đạt thì mới có tương lai sau này. Ý thức được hoàn cảnh của mình, nghị lực của bố mẹ, 2 anh em Tiến và Đạt từ bé đã luôn chăm chỉ học tập. 12 năm học phổ thông cho đến vào Đại học, Cao học, 2 anh em luôn đứng đầu lớp về thành tích học tập. Tiến còn là học sinh giỏi huyện, còn Đạt là học sinh giỏi tỉnh. Cả Tiến và Đạt đều học giỏi các môn tự nhiên. Hiện 2 con của bà đã trở thành thạc sĩ, tiến sĩ ngành kinh tế, toán học. Anh con trai cả hiện làm giáo viên ở Trường PTTH chuyên Bắc Ninh, còn anh con thứ hiện công tác ở Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Ninh. Hai con trai của bà đều đã có gia đình riêng, cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc. Đó cũng là phần thưởng cao quý nhất và là sự bù đắp của bao năm cần mẫn, miệt mài kiếm sống nuôi con của nữ thương binh.
Vợ chồng bà Hồng hạnh phúc bên các con, cháu |
Thành quả hôm nay là cả một sự nỗ lực vượt lên số phận, chiến thắng tật nguyền của vợ chồng bà. Hiện bà không còn phải vất vả, bươn chải ngược xuôi bán chè kiếm tiền nuôi con ăn học, nhưng hình ảnh một bà mẹ thương binh nặng, bị cụt hai tay, tần tảo nuôi con ăn học thành đạt ở Trung tâm điều dưỡng thương binh Thuận Thành đã trở thành một câu chuyện cổ tích giữa đời thường. Bà đã viết nên bài ca về tình yêu và cuộc sống, để rồi bất kỳ ai nghe, gặp cũng phải kính nể và khâm phục.
Bà còn có gọng hát rất hay. Những lúc buồn phiền hay đau ốm do vết thương cũ hành hạ khi trái gió trở trời, bà lại cất tiếng hát yêu đời, lạc quan để quên hết đau buồn và tiếp tục cuộc sống. Mỗi dịp kỷ niệm, giao lưu tại Trung tâm điều dưỡng Thuận Thành đều có giọng hát của bà góp vui. Bà từng đi tham gia các cuộc thi tiếng hát dành cho thương bệnh binh và từng đạt giải nhất cuộc thi tiếng hát thương binh toàn quốc.
Tấm gương nữ thương binh Trần Thị Hồng “tàn nhưng không phế” còn là ngọn lửa niềm tin và nghị lực cho những mảnh đời kém may mắn, nỗ lực vượt lên số phận để thành công. Đồng thời, nhắc nhớ thế hệ trẻ của chúng ta hôm nay hãy luôn phấn đấu trong học tập và cuộc sống, gìn giữ và phát huy những truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc vì những gì ta có được ngày hôm nay phải đổi từ biết bao xương máu và nước mắt của các thế hệ cha anh đã ngã xuống, của những thương binh như chị Hồng đã phải bỏ lại một phần thân thể của mình nơi chiến trường năm xưa…
Nguyễn Đài Thanh