Nhân ngày Thương binh liệt sỹ 27-7
Những người không trở về Bản nữa
Chiến tranh đã lùi xa mấy chục năm nhưng với thế hệ sinh vào giữa thế kỷ XX vẫn bị ám ảnh. Tiếng bom vẫn ì ầm đâu đó, đeo đẳng lâu nhất vẫn là mất mát hy sinh. Cái xã Phương Thiện của tôi bé lắm, một lòng chảo chỉ khoảng 4 cây số vuông nép mình dưới rặng Tây Côn Lĩnh hùng vĩ.
Bức thư gần 50 năm mới đến tay người con liệt sỹ Nguyễn Văn Phiêng |
Bức thư viết từ ngày 15/3/1972 đến tháng 3/2019 con trai liệt sỹ mới nhận được |
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp quê tôi cũng có nhiều người đi bộ đội nhưng hầu như đều trở về nguyên vẹn. Chỉ có hai người là thương binh. Những năm chống Mỹ quê tôi có quá nhiều người đi không trở về có lúc cả bản vắng lặng, nặng trĩu vì tin buồn.
Một lần đi theo vợ chồng nhạc sỹ Thanh Phúc đi Vị Xuyên vào nghĩa trang Liệt sỹ tôi đã rớt nước mắt khi nghe ca từ bài hát ông vừa sáng tác, đúng là rút ruột mình ra, chị Thanh Phúc có người em hy sinh năm 1984 ở Thanh Thủy: Vị Xuyên, chiều cuối năm/ nghĩa trang mây bao phủ/ nhạt nhòa trong mắt chị/ tên em trên mộ biếc/ đồng đội em nằm đây/ là con của quê nào/miền Nam bay miền Bắc/ Tây Nguyên hay miền Trung/các em đã đi xa/ mãi mãi không trở về/ mẹ cha vẫn thương tiếc/ quê hương còn xót thương/ nén hương này chị thắp/ để viếng hương hồn em/ mãi mãi cứ ngủ yên/ với Vị Xuyên quê mình.
Tôi nhớ người đầu tiên mất ở phương trời xa là anh Trung ở Con Pọong. Anh không phải bộ đội, là cán bộ thương nghiệp công tác ở Đồng Văn những năm tiễu phỉ. Thuở ấy, tôi học lớp 3, cái buổi chiều vàng vọt, lặng ngắt chỉ có tiếng thước kẻ của cô giáo gõ trên bàn và tiếng chúng tôi ê a đọc bài: cách/ trên lưng bò em hát/ cách/ những bài ca hòa bình/ cách/ tay phất ngọn cờ xinh…
Phá tan không gian ắng lặng ấy là tiếng ì ầm như nổ mìn phá đá từ triền núi xa xa vọng về, tôi chỉ nghe người lớn nói loáng thoáng, phỉ đánh chiếm cán Tỷ, Đồng Văn rồi. Cả bản, cả xã nháo nhác. Trong chiều mang mang nắng ấy, một đoàn người khăn tang trắng trên đầu vội vã khiêng chiếc quan tài rỗng chỉ có vài bộ quần áo của anh Trung ra khu rừng mộ của dòng họ.
Đó là đám ma khô đầu tiên tôi được chứng kiến. Anh Trung đi làm cán bộ thương nghiệp hay lương thực gì đấy trên Lũng Phìn, Đồng Văn và bị thổ phỉ giết hại nghe đâu anh còn bị mổ bụng, rán mỡ. Cái đám ma khô ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Hình như anh là liệt sỹ đầu tiên của xã tôi, vì anh hy sinh khi đang làm nhiệm vụ nhà nước giao. Bây giờ vợ anh vẫn được hưởng chế độ chính sách.
Nhưng anh bộ đội đầu tiên của bản tôi hy sinh là anh Huyền ở Nà Thiên, anh là con nuôi duy nhất của bà Bọc, vợ chồng ông bà không có con nên xin anh Huyền con của người em ruột về nuôi. Anh Huyền cao lớn, đẹp trai, tôi không rõ anh hy sinh ở mặt trận nào, từ khi anh mất mỗi lần đi học qua nhà, nhìn thấy ông bà Bọc tôi không dám nhìn vào mắt ông bà, chỉ sợ mình cũng khóc theo. Sau anh Huyền là anh Hoan cũng ở nà Thiên, nhà anh nghèo lắm, bố mẹ ốm đau luôn.
Cứ mỗi lần nhận giấy báo tử cả bản lại ắng lặng đi, không khí thật nặng nề. Năm 1968, Hà Giang thành lập tiểu đoàn Lâm Đồng (Tỉnh Hà Giang kết nghĩa với Lâm Đồng), tôi cũng khai tăng tuổi để nhập ngũ nhưng không được chấp nhận, cả bản chỉ có Nguyễn Văn Thọ ở Bản Noóc nhập ngũ, Huấn luyện xong tiểu đoàn hành quân vào Tây Nguyên.
Thọ hơn tôi một tuổi nhưng về họ hàng phải gọi tôi bằng anh. Trước khi đi chiến trường Thọ về phép mấy ngày, anh em bịn rịn chia tay nhau. Tôi cũng thầm ước mơ được mặc bộ quần áo bộ đội rồi đi chiến đấu như em và không ngờ đó là lần cuối cùng anh em trò chuyện với nhau, Thọ đi và mãi mãi không trở về nữa.
Cuối năm 1969 anh Phiêng con út bác Lẻo tôi vừa cưới vợ được vài ngày thì có giấy gọi nhập ngũ, bởi anh là con một, các bác ở ủy ban xã và họ hàng băn khoăn, không nỡ để anh đi đợt ấy nên bàn nhau đưa tôi vào thế chân anh. Tôi đang học lớp 10 chỉ còn vài tháng nữa là thi tốt nghiệp, phần vì không khí sục sôi hồi đó, phần vì thương anh, tôi quyết định nhập ngũ.
Tôi đi biền biệt từ bấy, năm 1971, tổng động viên trai tráng bản tôi đi vãn và anh Phiêng cũng đến lượt và hy sinh ở mặt trận Kon Tum. Chỉ vài năm có thêm mấy người nữa hy sinh, Thăng, Sơn, Tương, Chi, Ngận, tất cả đều ở tuổi đôi mươi cả.
Hôm đến viếng nghĩa trang Trường Sơn tôi chỉ thấy có 2 người bản tôi có mộ chí ở đấy Đó là anh Nguyễn Văn Thăng bản Châng và anh Nguyễn Văn Dào bản Mè. Tôi xa quê đã lâu nên những người ở Bản Mè hy sinh tôi không nắm được. Những người hy sinh đều có họ hàng với tôi cả, Thăng gọi tôi bằng anh, Sơn là cháu con ông anh bên mẹ tôi, Tương là con rể chú ruột tôi, chỉ có Ngận em cậu anh Huyền là họ xa một chút.
Đó là chưa kể những người trở về nhưng vĩnh viễn để lại một phần cơ thể nơi chiến trường như Nguyễn Văn Thật con cậu Chỉnh tôi, chú đã mất đôi chân ở sân bay Buôn Ma Thuột ngay ngày đầu nổ súng năm 1975.
Bản nhỏ của tôi chỉ có hơn 1000 dân (thời ấy) mà có 3 bà mẹ Việt Nam anh hùng.
TH