Chết là…thoát hết?
Hiện nay có một số quan điểm cho rằng chết là hết, chết là thoát tội, thoát luôn cả trách nhiệm dân sự, khối tài sản khổng lồ của những vi phạm trong vụ án tham nhũng, kinh tế lớn sẽ được bảo toàn cho vợ con, gia đình...Vậy điều này có đúng với các quy định của pháp luật?
Nêu quan điểm về vấn đề này Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn Phòng Luật sư Chính Pháp, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết: Với quan điểm cá nhân tôi lại không nghĩ như thế, thực tế pháp luật Việt Nam không có quy định nào như vậy. Pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ quy định là khi bị can bị cáo chết trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử mà vụ án đó chỉ có một bị can duy nhất, không có đồng phạm khác, không có người phạm tội khác thì vụ án sẽ bị đình chỉ.
Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn Phòng Luật sư Chính Pháp |
Còn trường hợp trong một vụ án có nhiều người phạm tội, có đồng phạm mà chỉ một bị can, bị cáo chết trong quá trình thực hiện thủ tục tố tụng thì chỉ đình chỉ điều tra đối với bị can đã chết, còn đối với các nghi phạm khác thì vẫn tiếp tục điều tra, truy tố, xét xử theo quy định pháp luật.
Trong trường hợp kết quả xét xử cho thấy bị can đã chết đó trước đây cũng có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước, tài sản của tổ chức, cá nhân thì thời điểm gây thiệt hại là thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật về dân sự. Bởi vậy tòa án có quyền tuyên bố trách nhiệm dân sự đối với người đã chết, nếu người đã chết có tài sản để lại thì sẽ căn cứ quy định của pháp luật về dân sự để xử lý đối với khối tài sản để lại đó, nếu sau khi thực hiện xong nghĩa vụ dân sự mà còn tài sản thì mới tính đến câu chuyện chia thừa kế cho những người còn sống.
Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự. Nó phải thỏa mãn các yếu tố của một quan hệ pháp luật đó là căn cứ tạo thành, căn cứ làm thay đổi và căn cứ chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể. Theo Điều 274 BLDS 2015 thì: Nghĩa vụ dân sự là quan hệ pháp luật dân sự mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền), phải bồi thường một thiệt hại về tài sản. Bên có nghĩa vụ dân sự trong quan hệ nghĩa vụ phải thực hiện các quyền yêu cầu của bên có quyền dân sự hợp pháp. Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật, trong đó các bên tham gia bình đẳng với nhau về mặt pháp lý, các quyền và nghĩa vụ dân sự hợp pháp của các bên, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người thứ ba đều được pháp luật đảm bảo thực hiện. Từ đó có thể thấy rằng việc xác định căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là việc xác định “nguồn cội” của nghĩa vụ, nó được hình thành từ đâu, theo những chuẩn mực pháp lý nào. Căn cứ vào những quy định về các căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự tại Điều 275 BLDS 2015 thì nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các căn cứ sau: – Hợp đồng dân sự – Hành vi pháp lý đơn phương – Thực hiện công việc không có ủy quyền – Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật – Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật – Những căn cứ khác do pháp luật quy định...
Như vậy theo quy định tại điều 275 bộ luật dân sự năm 2015 thì gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự. Bởi vậy khi tòa án xác định nghi phạm trong vụ án hình sự đã có hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho nhà nước, cho tổ chức, cho cả nhân thì có quyền căn cứ vào quy định pháp luật này để xác định nghĩa vụ dân sự là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người bị hại trong vụ án đó.
Khi đó những người thừa kế của Bị can, bị cáo chỉ được đòi hỏi quyền thừa kế sau khi đã thực hiện nghĩa vụ dân sự của bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật sau đây: Điều 615, Bộ luật dân sự 2015 Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại 1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. 3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Như vậy nếu trường hợp tòa án xác định bị can, bị cáo đã chết nhưng trước đó có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước, của tổ chức, của cá nhân thì tòa án sẽ tuyên trách nhiệm dân sự đối với bị cáo đã chết. Trong trường hợp này những người thừa kế của bị cáo có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại theo quy định tại điều 275 bộ luật dân sự và điều 615 bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên.
Điều 275. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ Nghĩa vụ phát sinh từ căn cứ sau đây: 1. Hợp đồng; 2. Hành vi pháp lý đơn phương; 3. Thực hiện công việc không có uỷ quyền; 4. Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; 5. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật; 6. Căn cứ khác do pháp luật quy định.
Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường