Những bài học lớn từ nhà cách mạng, nhà báo Trường Chinh (phần I)
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng vừa là những nhà tư tưởng, nhà lý luận chính trị xuất sắc vừa là những nhà tổ chức báo chí và nhà báo tài ba.
|
Có thể nói cố Tổng bí thư Trường Chinh là một tên tuổi lớn đã gắn liền sự nghiệp cách mạng của Đảng với các hoạt động báo chí cách mạng từ những ngày đầu thành lập Đảng đến khi đất nước độc lập, thống nhất. Không chỉ là nhà tư tưởng, nhà lý luận chính trị, nhà văn hoá lớn và nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, đồng chí Trường Chinh còn là nhà tổ chức báo chí, một nhà báo lớn của cách mạng Việt Nam.
Đồng chí Trường Chinh - Người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9/2/1907 ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định trong một gia đình có truyền thống Nho học. Thân phụ của đồng chí Trường Chinh là ông Đặng Xuân Viện, ông là một nhà nho uyên bác, một nhà khảo cứu giỏi trên nhiều lĩnh vực. Sau này, ông học chữ quốc ngữ và trở thành nhà báo, viết cho nhiều tờ báo lớn ở Hà Nội như: Nam Phong, Trung Bắc Tân Văn, Ngọ Báo…
Năm 1925-1926, khi còn là học sinh, đồng chí Trường Chính đã tham gia phong trào đấu tranh đòi ân xá cho Phan Bội Châu, lãnh đạo cuộc bãi khóa ở Nam Định để truy điệu Phan Chu Trinh và bị đuổi học. Năm 1927, đồng chí chuyển lên Hà Nội, học ở trường Cao đẳng Thương mại và tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Năm 1929, đồng chí tham gia cuộc vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ. Năm 1930, đồng chí Trường Chinh được chỉ định vào Ban tuyên truyền cổ động Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm này, đồng chí bị Pháp bắt và kết án 12 năm tù và đày đi Sơn La, đến năm 1936 được trả tự do.
Giai đoạn 1936-1939, đồng chí Trường Chinh là Xứ Ủy viên Bắc Kỳ, đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương trong Ủy ban Mặt trận Dân chủ Bắc Kỳ. Tại Hội nghị Trung ương 7 họp tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 11 năm 1940, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được cử làm Quyền Tổng Bí thư Đảng thay đồng chí Nguyễn Văn Cừ. Tháng 5 năm 1941, tại Hội nghị Trung ương 8 họp tại Cao Bằng, đồng chí Trường Chính được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1943, đồng chí bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt.
Trong giai đoạn chuẩn bị Cách mạng tháng Tám 1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng, đồng chí được cử phụ trách Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Năm 1951, khi Đảng Cộng sản được thành lập lại với tên Đảng Lao động Việt Nam, đồng chí Trường Chinh được bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương và giữ cương vị Tổng Bí thư.
Các lãnh tụ của đảng ở chiến khu Việt Bắc |
Năm 1958, đồng chí Trường Chinh được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Đến năm 1960, đồng chí lại được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị. Cũng trong năm này, đồng chí được Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội và tiếp tục giữ chức vụ này trong Quốc hội Việt Nam thống nhất từ năm 1976 đến năm 1981.
Năm 1981, đồng chí Trường Chinh được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 14 tháng 7 năm 1986, tại Hội nghị đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam thay cho đồng chí Lê Duẩn vừa mất. Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, đồng chí rút khỏi các chức vụ của Đảng, Nhà nước và được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí đã được Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Sao vàng và nhiều Huân chương khác. Đồng chí qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1988, thọ 81 tuổi.
Thấm nhuần tư tưởng Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, ngay từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng, đồng chí Trường Chinh đã hiểu rõ vai trò và sức mạnh của báo chí trong quá trình tuyên truyền, giáo dục, cổ vũ, tập hợp quần chúng nhân dân và vận động cách mạng. Bắt đầu từ những năm 1927, 1928 là thời gian rất quan trọng trong quá trình phát triển của tổ chức Thanh niên. Vừa học ở Hà Nội, đồng chí Trường Chinh vừa tranh thủ về làng Hành Thiện lập ra tờ báo Dân cày để mở rộng tuyên truyền cách mạng trong các tầng lớp dân chúng địa phương.
Từ khoảng cuối năm 1928, đầu năm 1929, để đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước và phong trào công nhân, đồng chí Trường Chinh là một trong những người thuộc nhóm cán bộ ưu tú của Thanh niên ở Bắc Kỳ đã khởi xướng phong trào vô sản hoá và xúc tiến cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản. Từ đầu năm 1930, sau khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước, lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí là một trong những đảng viên lớp đầu tiên của Đảng.
Ảnh minh họa |
Trong thời gian bị địch giam hãm tù đầy, đồng chí Trường Chinh đã cùng một số cán bộ của Đảng biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng. Ở trong tù, cùng với Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt) và một số cán bộ kiên trung của Đảng, đồng chí đã sớm lập ra chi bộ Đảng và một số tổ chức, đoàn thể hữu ái của tù nhân tại nhà tù Hoả Lò và nhà tù Sơn La.
Đồng chí Trường Chinh được chi bộ phân công biên soạn một loạt các tài liệu giản yếu lý luận và phụ trách một số tờ báo bí mật của Đảng ở trong tù, trong số này có tờ Con đường chính vừa được coi là tài liệu huấn luyện đảng viên mới, lại vừa là vũ khí lý luận trong cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng giữa những người mang tư tưởng cộng sản với các nhóm tù nhân vốn là người của Việt Nam Quốc dân Đảng. Có thể nói, đồng chí Trường Chinh đã khởi đầu sự nghiệp hoạt động lý luận, tuyên truyền và văn hoá của mình ở trong chính nhà tù thực dân - trường học vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta xác định rõ vai trò rất quan trọng của công tác tuyên truyền. Đảng chủ trương lập ra một loạt các tờ báo, tạp chí công khai bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp nhằm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, đường lối của Đảng, mở ra một mặt trận đấu tranh công khai về chính trị, tư tưởng và văn hoá với chính quyền thực dân, thông qua vận động quần chúng, khuếch trương uy tín và ảnh hưởng trong các tầng lớp nhân dân. Một số đảng viên ưu tú, có khả năng và trình độ được Đảng phân công hoạt động trên mặt trận này, trong đó, tiêu biểu nhất là các đồng chí Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Bùi Công Trừng, Nguyễn Khoa Văn, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp v.v..
Trong thời kỳ 1936 – 1939, đồng chí Trường Chinh chính là linh hồn, là người lãnh đạo nhóm cán bộ Đảng hoạt động báo chí tuyên truyền công khai ở Bắc Kỳ. Đồng chí trực tiếp tham gia lãnh đạo một số tờ báo lớn nhất của Đảng như tờ Le Travail, Tin tức, Đời nay, Notre voix..., đồng thời trực tiếp biên soạn nhiều tài liệu huấn luyện, tuyên truyền phục vụ cho công tác vận động quần chúng của Đảng. Với bút danh Qua Ninh, cùng với đồng chí Võ Nguyên Giáp (bút danh Vân Đình), đồng chí biên soạn và công bố cuốn "Vấn đề dân cày" vào năm 1937. Các nhà nghiên cứu đều nhận định đây là một tài liệu có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn đối với công tác vận động nông dân của Đảng.
Minh Huy