Mùa xuân về nhớ bạn bè và mái trường xưa
Khi mùa Xuân đến ấn tượng trong ta là cây lá đâm chồi nảy lộc, muôn hoa khoe sắc và lòng người phơi phới nhưng vẫn có những giây phút chạnh buồn. Vẫn biết “đông tận, xuân về” mà lòng ai cũng bâng khuâng khi thấy cuốn lịch mỏng dần, từng tờ rơi xuống như lá vàng mùa thu.
Những người thày từng dạy chúng tôi trong những tháng năm chiến tranh |
Vẫn hay “Xuân đến, Xuân đi” mà ta vẫn ngóng trông khi những đóa hoa đào, hoa mai vừa lấp ló. Mùa Xuân tượng trưng của phúc lộc, mỗi lần đến làm lòng người hân hoan, nỗi buồn vợi bớt. Suy nghĩ của chúng ta mỗi khi tết đến, xuân về giống như người nuối tiếc vì vừa lỡ một cơ hội tốt đẹp đã qua, vừa trót làm một điều gì dại dột.
Thời gian qua đi không bao giờ trở lại. Bởi thế, lúc tết đến Xuân về, ai cũng suy tư về ý nghĩa cuộc đời. Những thăng trầm của cuộc sống con người giống như bốn mùa thay nhau đắp đổi. Có người đã ví Tuổi thơ đơn sơ giống như mùa xuân với những nụ mầm mới hé; tuổi học đường tràn trề sức sống giống như mùa hạ chói chang; tuổi làm cha mẹ thao thức âu lo giống như mùa thu sâu lắng; tuổi xế chiều của người cao tuổi giống như mùa đông lạnh giá đang về.
Trong cuộc sống hiện tại của con người, luôn có bốn mùa cùng hiện hữu: mùa xuân tượng trưng cho niềm vui hạnh phúc ta thu hái được; mùa hạ giống những đắn đo lựa chọn một hướng đi cho tương lai; mùa thu lại thâm trầm sâu sắc như gánh nặng của sứ mệnh làm người; mùa đông nhắc ta tổng kết cuộc đời làm bài học cho con cháu.
Thỉnh thoảng bạn bè lại về trường gặp mặt |
Người khôn ngoan là người biết đón nhận những hoàn cảnh vui buồn muôn màu muôn vẻ luôn bất ngờ xảy đến, giống như bình thản hưởng thụ bốn mùa của đất trời, nhờ vậy mà họ có một cuộc sống quân bình, không buồn nản khi gặp khó khăn, thử thách, không kiêu ngạo khi thành công. Mùa xuân này tôi luôn nhớ về mái trường cấp III thân yêu, trường Lê Hồng Phong TP Hà Giang của tôi, mái trường đã lưu giữ cho tôi biết bao kỷ niệm thời thanh xuân.
Trong một chuyến về quê tôi gặp thầy Nguyễn Văn Thịnh, thầy giáo dạy môn hóa học của chúng tôi, sau thầy lên làm hiệu trưởng. Thầy Thịnh là một người thầy hết lòng vì học trò, yêu trường, gắn bó, tâm huyết với ngôi trường đến kỳ lạ.
Sau khi nghỉ hưu, thầy dành khá nhiều thời gian gặp gỡ, ghi chép lại tên tuổi các thầy cô giáo, học sinh của trường từ những năm đầu mới thành lập đến nay, thầy sưu tầm tài liệu, ghi chép lại quá trình phát triển của nhà trường, những lần sơ tán, những khi chuyển địa điểm dựng trường, những học sinh của nhà trường đã hy sinh vì tổ quốc, những thầy giáo, học sinh thành đạt…
Thầy say sưa tâm sự với tôi, rằng các bậc tiền bối kể lại, khi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), thực hiện vườn không nhà trống, một bộ phận nhân dân thị xã Hà Giang chuyển vào chân núi Mỏ Neo, thành lập hai khu dân cư mới là Cầu Phát và Chợ Mới thuộc xã An Cơ huyện Vị Xuyên. Để đáp ứng nhu cầu học tập của con em khu vực tản cư, các lớp học đã ra đời, lớp học đặt nhờ nhà của đồng bào ở địa phương, các thầy sống cùng nhà dân sơ tán.
Ngót 70 năm, bao thế hệ học sinh đã trưởng thành từ mái trường này |
Trong kháng chiến gian khổ nhưng số học sinh đến lớp vẫn tăng dần. Năm 1950, một ngôi trường ra đời, mang tên “Trường Cơ Bản Tỉnh Hà Giang” do thầy Vũ Văn Cấp Trưởng ty giáo dục trực tiếp phụ trách. Đời sống thời chiến nhiều khó khăn thiếu thốn nhưng các thầy cô rất yêu nghề, vừa dạy văn hóa vừa giáo dục đạo đức cho học sinh, thầy trò cùng rào tường, trồng sắn, trồng ngô, khoai, rau, đậu. Thực hiện khẩu hiệu “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, các thầy tổ chức hoạt động hướng về cuộc kháng chiến “Toàn dân - toàn diện” bằng nhiều cách: Học sinh lớn vào rừng lấy củi bán, chặt mía thuê gây quỹ mua “Công trái kháng chiến”. Học sinh nhỏ nhịn quà sáng để dành tiền góp công quỹ…
Năm 1950, bộ đội từ miền xuôi hành quân qua Hà Giang theo Quốc lộ số 2 để sang Trung Quốc luyện tập quân sự chuẩn bị tổng phản công nên giặc Pháp tăng cường bắn phá thị xã. Từ học ban ngày, trường phải chuyển sang học ban đêm, có thời gian phải học trong hang đá.
Sách giáo khoa chưa có, giấy viết phải dùng báo cũ ngâm nước vo gạo, nước vôi, phơi khô, rồi lấy chai lăn cho phẳng. Thời kì đầu, học sinh phải dùng dầu ve, mỡ lợn, mỡ bò, có khi phải dùng hạt bưởi, xiên phơi khô đốt thay đèn để có ánh sáng học đêm; cắm ngòi bút vào que tre để có bút viết. Tuy vậy, nhờ lòng hiếu học, lại được các thầy cô thương yêu, giảng dạy nhiệt tình nên học sinh đến lớp đầy đủ, tiếng học bài vẫn vang vọng vào vách núi.
Những thế hệ kế tiếp |
Lúc này, trường chuyển từ Cầu Phát sang chân Núi Cấm, nơi đặt Tượng đài liệt sỹ TP Hà Giang hiện nay. Tất cả các tư liệu thầy Thịnh đều lưu giữ, kể cả những câu ca dao, hò vè, những bài thơ của thầy và trò nhà trường đã làm trong từng giai đoạn phát triển, với tấm lòng trân trọng, nâng niu.
Ngót 70 năm trôi qua, từ Trường Cơ bản (cấp 1) rồi Nhô Cấp 2, Cấp 2 hoàn chỉnh, Nhô cấp 3 và đến nay thành một trường Cấp 3 bề thế, với bề dày truyền thống đánh dấu một chặng đường giáo dục, đào tạo gian nan của miền sơn cước. Là học sinh của trường từ 1966 đến 1970, chúng tôi đã học tại trường sơ tán trên núi ở km 2 đường Hà Giang - Đồng Văn, rồi “hạ sơn”, thầy trò vào Phú Linh, Kim Thạch chặt nứa, chặt vầu về dựng trường ở Cầu Phát.
Xa mái trường đã gần nửa thế kỷ, chúng tôi đều đã về hưu, ai cũng mang một gương mặt nhàu nhĩ, dấu ấn hủy hoại của thời gian và gánh nặng cuộc đời, gặp lại nhau vẫn “mày tao”, nhưng cái tiếng gọi “mày tao” hôm nay trĩu nặng suy tư, không còn nhẹ hều và vô tư như thuở trước.
Học sinh các khóa 1970 đến 1990 lập nghiệp ở nơi xa đã quyên góp hơn 700 triệu đồng khắc tượng nhà cách mạng Lê Hồng Phong đặt trong khuôn viên nhà trường |
Lớp tôi hơn năm chục người mà gom lại chưa được 20. Lý Hồng Minh định cư ở Hoa Kỳ xa lắc, thỉnh thoảng có về quê nhưng hầu như không ai gặp. Hoàng Đình Pắn ở Tuyên Quang cũng không lên được. Thật cảm động khi Nguyễn Trọng Thắng cũng đến được với các bạn. Mấy năm trước Thắng bị tai biến giờ tạm hồi phục nhưng vẫn nhớ nhớ quên quên. Biết anh khao khát gặp bè bạn, thương chồng, chị Thuý vợ anh đưa anh đi bằng xe máy hơn 20km từ thị trấn Vị Xuyên lên thành phố rồi lại về trong đêm. Nhóm Hải, Giang ở Hải Dương, Phú Thọ, lên, phần lớn các bạn đều loanh quanh ở T.P Hà Giang, Vị Xuyên. Tôn, Phan, Chu, Quyết, Mão, Chiêm, Khuê, Hoạch, Cúc, Quy, Dần, Mai, Hùng, Minh, Thắng, Liêm, Bảo, Chiến, Hằng… tất cả đều đã an phận với vai “ô sin” không lương. Hoàn cảnh khác nhau nhưng chúng tôi giống nhau ở điểm đều an nhiên tự tại, bằng lòng với cuộc sống của mình. Hình như ai sống ở vùng quê nghèo khó này cũng vậy, tốt, vì không vướng vào kèn cựa, đố kỵ, mưu mô, nhưng dở là không dám bứt phá, không dám đi xa, làm cái gì cũng rụt rè, không quyết liệt. Chúng tôi vui vì thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia truyền được cảm hứng về tinh thần hiếu học.
Dù đi đâu về đâu, các thế hệ học sinh vẫn quần tụ dưới mái tường vào những dịp kỷ niệm |
Gặp nhau, chúng tôi vẫn nói nhiều về các thầy cô, những người đã tận tình truyền đạt kiến thức, dìu dắt chúng tôi trưởng thành. Đó cũng là lúc để suy ngẫm, để nhớ về những kỉ niệm với thầy cô đáng kính, là dịp đặc biệt để chúng tôi, những cô cậu học trò một thời thể hiện tình cảm với thầy cô, với bạn bè thân thương. Chúng tôi vẫn nhớ thầy Lã, thầy Quang, thầy Sự, thầy Hỷ, thầy Yến, thầy Khuê, thầy Thịnh, thầy Lịch… những người thầy nghiêm khắc và mô phạm, những người thầy chúng tôi trân trọng và kính yêu.
Ngổn ngang với bao nhiêu ký ức, bao nhiêu kỷ niệm thời thanh xuân, cái thời vô tư, cái thời nghịch ngợm. Gặp nhau, đám học trò già chúng tôi cùng ôn lại vui buồn, kể cho nhau nghe biết bao nhiêu chuyện, ăn với nhau một bữa cơm, rồi chia tay, hẹn gặp lại trong những mùa xuân sau.
HPT