Chắc là Bác sợ tao chết (phần II)
Một kỷ niệm không bao giờ quên trong cuộc đời ông là tại lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9/9/1969, ông đã chỉ huy phi đội gồm 12 chiếc Mig 17 bay qua bầu trời Ba Đình, chào vĩnh biệt Bác.
Giữa đời thường bình thản như ông không nhiều người làm được |
Sau khi nghỉ bay, ông chuyên tâm vào nhiệm vụ lãnh đạo và trúng đại biểu Quốc hội hai nhiệm kỳ IV, V. Tháng 5/1975, ông tiếp quản, lãnh đạo sân bay Cần Thơ gần một năm và sau đó chỉ huy không quân trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Ông trải qua các chức vụ: Trung đoàn trưởng trung đoàn 937, Sư đoàn phó sư đoàn 372, Tham mưu phó quân chủng Không quân cho đến lúc nghỉ hưu năm 1990 với quân hàm đại tá.
Trở lại với đời thường, lúc đầu ông ở với hai con trai tại thành phố Hồ Chí Minh. Không thích cuộc sống ồn ào đô thị, một năm sau ông chuyển về ở với con gái tại thị xã Sa Đéc. Vẫn không thích, cách đây gần 10 năm vợ chồng ông về làm nhà sống ngay trên mảnh đất hương hỏa mà cha mẹ ông để lại. Hai ông bà cảm thấy rất hạnh phúc khi về đây. Ông làm mấy công lúa, nuôi cá, gà, vịt và chăm bón vườn tược như một nông dân thực thụ.
Ông thổ lộ:
- Có người thấy tao sống thế này, tưởng tao khổ. Nhưng không! Tao sướng lắm. Chăn nuôi, làm vườn vừa khỏe người vừa vui lại có thêm thu nhập. Hàng tháng, tao lĩnh 3 đầu lương: lương đại tá về hưu, lương đánh giặc giỏi (anh hùng), lương đánh giặc dở (thương binh).
Vẫn cặm cụi với ao, vườn |
Ông có năng khiếu nói chuyện rất vui, đôi khi tếu táo. Quan điểm của ông: “Nhậu là phải vui, không vui không nhậu”. Thỉnh thoảng, ông vẫn có thể phóng xe máy ra tận thị xã Sa Đéc cách nhà chục cây số nhậu lai rai với bạn bè. Có hôm trên đường về bị công an chặn lại yêu cầu xuất trình bằng lái xe, ông bảo tao chỉ có bằng lái máy bay thôi.
Công an vùng này đều biết tiếng ông nên họ liền… tha. Đến đầu mỗi tháng, ông lại lên thành phố Hồ Chí Minh ở dăm ba ngày để họp chi bộ, lĩnh lương, kết hợp thăm con cháu và đồng đội xưa. Với cái tuổi như ông mà chẳng thấy bệnh tật gì, hệ thống tim mạch bình thường, chỉ lãng tai một chút, kể cũng hiếm.
Ông về đây giúp cho địa phương nhiều việc. Đứa cháu ông là chủ quán cà phê ở đầu xã, trên đường dẫn tôi đến nhà ông, cho biết:
- Cậu Bảy là niềm tự hào của quê hương cháu, họ quen gọi cậu là Bảy Lúa. Nhờ cậu ấy vận động các Mạnh thường quân mà nay điện đã được kéo về đến tận ấp, đường được mở rộng, ô tô có thể đi vô tận sân nhà cậu Bảy được rồi.
Điều lý thú là chính tại căn nhà nhỏ bé ở cái ấp hẻo lánh này, ông đã vài lần tiếp những đối thủ của mình mấy chục năm trước.
Vẫn vui cùng xóm giềng |
Người đầu tiên gặp ông là trung tướng Steve Ritchie từng lái F4, được cho là phi công Mỹ giỏi nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Tham gia không chiến nhiều trận, tuy chưa đụng độ với ông Bảy lần nào nhưng cảm phục chiến công của ông Bảy nên tháng 12/2009, sau khi dự một hội thảo tại Hà Nội, viên trung tướng đã vào tận đây gặp ông.
Người thứ hai là thiếu tá Joseph Charlie Plumb đến gặp ông vào tháng 7/2015. Joseph từng đối đầu với ông Bảy trong trận không chiến ngày 24/4/1967 trên bầu trời Hải Phòng – Quảng Yên. Hôm đó, chiếc F8 của E.J. Tucker bị ông hạ, còn máy bay của Joseph kịp rút về tàu sân bay nhưng lại bị tên lửa ta bắn rơi trên bầu trời Hà Nội sau đấy gần một tháng, bị bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò. Cuộc gặp nhau sau 48 năm thật cảm động. Ông Bảy tặng khách mấy chiếc khăn rằn đặc sản quê ông. Còn khách thì vừa bất ngờ vừa thú vị trước cuộc sống điền viên của một cựu phi công lừng danh.
Người thứ ba là đại tá, tiến sĩ Marshall L. Michel. Ông này đã từng có 321 phi vụ bay trinh sát trên bầu trời miền Bắc, sau này trở thành tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam. Khi sang Hà Nội lấy tư liệu viết sách, ông ta vào Đồng Tháp tìm gặp ông Bảy. Bên ly rượu trắng và vài món nhậu đặc sản do chính ông Bảy nuôi trồng được, hai cựu thù ngồi ôn lại những kỷ niệm xưa như những người bạn lâu ngày gặp lại.
Bình thản đưa võng trong ngôi nhà thân thuộc |
Nhưng đáng nhớ nhất là lần ông đi thăm nước Mỹ một tuần vào tháng 9/2017. Chuyến đi này gồm 12 cựu phi công quân sự của ta do trung tướng Nguyễn Đức Soát dẫn đầu, sang dự giao lưu với các phi công Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam. Lần ấy, ông gặp nhiều cựu phi công Mỹ, dù chưa một lần không chiến với ông Bảy, nhưng họ rất nể trọng ông. Một người trong số họ đã nói vui: “May quá, hồi ấy chúng tôi không gặp ông, chứ nếu gặp thì tiêu rồi…”. Đặc biệt, một thiếu tá phi công từng bị ông bắn rơi đã dẫn cả vợ và con gái đến thăm ông. Ông hỏi cô con gái gần 50 tuổi:
- Nếu hồi đó tao lỡ bắn chết ba mày thì hôm nay mày có căm thù tao không?
Nó nói: – No! No!
Giản dị giữa đời thường |
Ông Bảy đính chính:
- Sự thật chỉ có vậy. Thế nhưng sau đó, một tờ báo lại viết là người vợ cảm ơn tao đã nhân đạo không bắn chết chồng bà ấy. Làm gì có chuyện đó. Trong không chiến thì một mất một còn. Tại tao bắn dở nên không trúng buồng lái của nó thôi. Chiếc máy bay cũng như con người vậy. Tù nhân bị địch tra tấn dã man thế mà không chết, nhưng bạn bè nhậu say cãi lộn, lỡ tay đập vào chỗ hiểm có khi lại lăn quay. Nếu máy bay bị bắn trúng buồng lái hoặc thùng xăng phụ, rất dễ bốc cháy, khó có cơ hội sống sót. Còn trúng chỗ khác thì có thể kịp nhảy dù hoặc lết về sân bay được.
Còn một chi tiết nữa ông cũng muốn “nói lại cho đúng”. Nhiều tài liệu ghi là ông học lái Mig 17 ở Liên Xô. Không phải thế. Thực ra, ông có học một năm ở Liên Xô tại Học viện Không quân Gagarin, nhưng đó là khóa đào tạo chỉ huy không quân cấp sư đoàn, chứ không phải học lái.
Nói về mình, ông khiêm tốn thừa nhận:
- Lý thuyết tao không bằng người ta, nhưng đối với phi công chiến đấu thì thực hành quan trọng hơn lý thuyết, ngoài kinh nghiệm bay và lòng dũng cảm thì rất cần đến yếu tố năng khiếu.
Máy bay của ông mấy lần bị địch phóng tên lửa từ sau tới nhưng đều trượt. Ông nhận thấy tụi phi công Mỹ chỉ thích dùng tên lửa, mà loại này thường phải phóng từ xa, ít nhất là 2 km. Đây là khoảng cách bay với thời gian đủ để ông né tránh. Kinh nghiệm của ông là khi thấy máy bay của chúng to bằng bắp tay, hai quả tên lửa bằng chiếc đũa từ bụng máy bay rớt xuống là ông ngoặt máy bay đột ngột để tránh. Đánh nhau vậy mà bị trúng đạn có một lần và chưa bị rớt máy bay lần nào thì chắc chắn không chỉ là do yếu tố may mắn!
Biểu tượng một thời |
Nói vòng vo một hồi những chuyện liên quan đến con cháu và đồng đội của ông, cuối cùng chúng tôi lại quay trở về với chuyện không chiến. Trả lời câu hỏi của tôi về mối tương quan lực lượng giữa ta và Mỹ hồi đó thế nào, ông nêu lên một loạt số liệu.
Đến tháng 8/1964, khi Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc, ta mới có trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên với 34 máy bay Mig 17 lạc hậu, trong khi Mỹ có 3 tàu sân bay ngoài Thái Bình Dương, mỗi tàu đậu 60 chiếc, lại thêm 4 sân bay ở Thái Lan, mỗi sân bay chứa chừng 100 chiếc. Mình đánh nhau với họ chẳng khác chi “châu chấu đá voi”. Thời gian đầu, Mỹ tỏ ra coi thường không quân ta lắm, cho rằng không xứng đáng là đối thủ của họ. Sau này, họ mới ngán!
Ông thành thật khen:
- Bọn Mỹ giỏi lắm, ta cất cánh chiếc nào nó nắm được hết. Nó biết rõ loại máy bay gì, mấy chiếc, đang bay ở đâu, những ai lái và thông báo cho nhau. Ví dụ: “Hôm nay có Bảy hoặc Ngân hoặc Cốc bay lên đấy, bọn bay coi chừng”. Nó không nói rõ tên vậy đâu, mà mỗi phi công của ta nó đặt cho một biệt hiệu. Không biết Mỹ đặt cho tao biệt hiệu gì. Còn về phía ta, mỗi lần cất cánh được mang một số hiệu riêng để liên lạc với nhau và với đài chỉ huy. Ví dụ, hôm nay tao mang số 47 thì ngày mai lại mang số 56.
Thanh thản giữa đời thường |
Điều rất quan trọng tôi chưa kịp hỏi thì ông lại nói ra:
- Kết thúc chiến tranh, không quân ta cứ bắn rơi được 3 máy bay Mỹ thì mình cũng phải hy sinh 2 chiếc. Lực lượng hai bên quá chênh lệch mà mình “chơi” với nó được vậy là giỏi lắm rồi. Không quân các nước Trung Đông muốn bắn hạ được 1 máy bay Israel thì phải mất đi 10 chiếc đấy.
Ông đánh giá tiềm lực không quân của ta hiện nay rất mạnh và hiện đại hơn thời của ông nhiều lắm. Nhưng ta cần hữu nghị, gìn giữ hòa bình để xây dựng đất nước, chứ còn đánh nhau thì mình chẳng ngán ai. Ông ngồi lặng đi một chút rồi hình như nói với chính mình:
- Dù sao, tao cũng cảm ơn Trung Quốc. Họ đã nuôi dạy tao từ một người lính bình thường trở thành một phi công chiến đấu giỏi. Họ đã giúp mình rất nhiều máy bay để có cái mà đánh nhau với Mỹ. Cái gì họ tốt thì mình nói tốt, chứ không “vơ đũa cả nắm”.
Tôi hỏi đã có bao nhiêu nhà văn, nhà báo viết về ông rồi, ông bảo nhiều lắm, mày muốn viết gì thì hôm nào sang ở với tao một ngày, tao kể cho nghe để rồi viết cho chính xác. Một lần nữa, ông khẳng định với tôi là ông đã bắn rơi 1 chiếc F105, 5 chiếc F4 và 1 chiếc F8, trong đó có 3 phi công nhảy dù ra được. Số liệu này, nhiều báo viết không thống nhất.
Vẫn đi về với những hàng cây |
Khi chúng tôi đã lâng lâng bởi mấy ly rượu quê, thì ông còn “làm” thêm một ly nữa mới chịu kết thúc cuộc nhậu. Ông dẫn chúng tôi ra vườn giới thiệu thành quả lao động của mình. Những luống rau xanh ngăn ngắt bên cạnh những cây mít, cây xoài trĩu quả. Ông bốc từng nắm thức ăn vãi xuống ao cá. Hàng trăm con ba sa, rô phi, chép vàng ngoi lên đua nhau đớp tóe tung mặt nước. Mắt ông sáng lên niềm vui thú điền viên…
Chiều mùa hạ, miệt vườn ngập nắng. Bầu trời cao xanh vời vợi chấp chới mấy cánh chim. Đồng lúa đang vào độ chín vàng trải dài ngút ngát bao quanh thôn ấp. Tôi bâng khuâng đứng bên dòng kênh nhỏ với cảm xúc thật khó tả. Không biết lối nào ngày xưa đã dẫn bước chàng trai nông dân 17 tuổi trốn nhà đi theo kháng chiến để rồi trở thành một phi công huyền thoại, vút lên bầu trời thư hùng với giặc, bảo vệ đất nước thân yêu của mình. Phải chăng, chàng như Phù Đổng Thiên Vương của thế kỷ XX, nhưng có khác là thắng giặc rồi, chàng không bay về trời mà trở lại quê nhà tiếp tục làm ông “Bảy Lúa”…
Trần Thanh Chương