Khi những người ra đi du học…chưa định trở về
Hiền tài là nguyên khí quốc gia Thân Nhân Trung (Đại thần thời vua Lê Thánh Tông) - Cuối năm, đọc tin và ngẫm nghĩ
Theo Tổng cục thống kê, kim ngạch xuát khẩu nhóm mặt hàng điện thoại và linh kiện trong 11 tháng đầu năm đạt 28,5 tỷ đô la, tăng 29,6% so với cùng kỳ và sẽ vượt 30 tỷ đô la trong năm nay. Còn theo báo cáo của Cục Quản lý đăng ký và kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 11 tháng đầu năm cả nước đã có 8.468 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 2,23% so với cùng kỳ năm trước, nhưng trong lĩnh vực thông tin và truyền thông số doanh nghệp giải thể lại tăng 112,2%. Đồng thời, theo thông báo của Sở thuế Hà Nội, ông Nguyễn Hà Đông, tác giả của trò chơi Flappy bỉirh nổi tiếng,vừa nộp thuế thu nhập cá nhân 1,4 tỷ đồng
Theo thông tin báo chí, mỗi năm Việt Nam chi 3 tỷ đô la cho việc đào tạo ở nước ngoài. Nhưng nhiều người đào tạo xong không trở về nước. Điển hình là trong 13 quán quân của cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia được học bổng đi học nước ngoài thì chỉ có 1 người sau khi tốt nghiệp trở về nước làm việc. Quá hơn nữa, sự kiện đang ‘hot’ là ông tiến sỹ Doãn Minh Đăng, phó trưởng khoa khoa Điện- Điện tử- Viễn thông, Đại học Công nghệ Càn Thơ, một trong số những người đoạt giải Đường lên đỉnh Olympia rồi đi học nước ngoài rồi về nước công tác, lại đang bị Hiệu trưởng coi là mắc bệnh tâm thần vì cứ muốn làm khoa học, dù dã được quy hoạch một chân quản lý là phó hiệu trưởng !?
Theo tin từ cuộc họp Quốc Hội thì tình hình ngân sách của nhà nước đang rất khó khăn, và triển vọng tăng lương năm tới cho những người hưởng lương và đãi ngộ của nhà nước cũng rất khó khăn. Nguyên nhân trực tiếp được lý giải là do giá dầu giảm nên nguồn thu của ngân sách nhà nước qua Tổng Công ty dầu khí giảm, tuy Việt Nam là nước nhập khẩu dầu nhiều nên đáng ra nền kinh tế phải có lãi lớn lúc này. Nguyên nhân sâu hơn là bộ máy nhà nước tiêu tiền quá bạo tay: 40 nghìn xe công, các trụ sở hành chính hàng nghìn tỷ đồng, các chuyến công du cho các cụ đã vê hưu hoặc đang ở giai đoạn hoàng hôn nhiệm kỳ đi học hỏi kinh nghiệm công tác ở nước ngoài, kiểu như đi Nam Phi xem tê giác phi trên đồng hoang chẳng hạn … Nguyên nhân nữa chắc là vì dù dã cố gắng rất nhiều, nhưng nạn tham nhũng vẫn còn đó và ngành thanh tra của hai thành phố lớn nhất nước, Hà Nội và Thành phố Hồc Chí Minh, vẫn chẳng tìm ra được một kẻ nào trong suốt cả năm qua.
Nhưng nguyên nhân sâu xa nhất của sự thiếu hụt ngân sách chắc phải là cái gì đó khác, có tác động chi phối tới tất cả những gì chúng ta đã được đọc ở trên..
Nhìn lại những thông tin trên có thể rút ra ba kết luận.
Thứ nhất, doanh nghiệp nước ngoài không phải là doanh nghiệp Việt, như có một số người vẫn nhầm tưởng. Có thể thấy họ đang làm ăn rất có kết quả ở Việt Nam bằng việc đưa ra những sản phẩm hiện đại nhất với những công nghệ tiên tiến nhất, và cần phải nghiêng mình kính phục họ về việc này. Nhưng kết quả của những thành công đó, rất tiếc, lại sẽ được chuyển về cho chính quốc của họ, chứ không phải để lại ở Việt Nam. Trong khi về lâu dài, những hậu quả về môi trường và an sinh xã hội cho người lao động Việt sẽ là gánh nặng cho ngân sách quốc gia, còn trước mắt thì ngân sách chúng ta chẳng có được mấy cải thiện: lượng thuế thu được sau khi đã trừ đi đủ loại ưu đãi cho các doanh nghiệp nước ngoài còn lại đâu có nhiều !.
Thứ hai, sức mạnh của mỗi quốc gia nằm ở các doanh nghiệp của quốc gia đó. Đà phá sản và đóng cửa của các doanh nghiệp Việt, điều diễn ra ào ạt trong mấy năm qua, nay đã tạm dừng, nhưng việc đóng cửa của các doanh nghiệp trong lĩnh vực thông tin và truyền thông số, những ngành đòi hỏi công nghệ hiện đại nhất và cũng có khả năng mang lại lợi nhuận cao nhất, lại tăng cao đáng phải suy nghĩ. Điều kiện kinh doanh ở nước ta vốn quá khó khăn vẫn không mấy cải thiện, thì đã đành, nhưng cái khó nhất cho những ngành này là phải có sẵn nguồn nhân lực chất lượng cao và có thể sử dụng được họ. Vậy thì cái sự đóng cửa các doanh nghiệp thông tin và truyền thông này gia tăng cho thấy có trục trặc lớn trong vấn đề nhân lực trình độ cao, cái mà Việt Nam chưa sẵn và cái mà bất cứ sự đầu tư nào, cho dù lớn đến đâu, cũng không thể một sáng một chiều thay thế được.
Thứ ba, năng lực đóng góp của những người có trình độ cao trong hoạt động khoa học và công nghệ thật là to lớn và minh bạch. Trường hợp ông Nguyễn Hà Đông chỉ là một ví dụ dễ thấy, nhưng còn rất nhiều những người có trình độ cao đang làm việc và tổng số đóng góp của họ cho ngân sách quốc gia thật là lớn so với số lượng của họ. Và nhất là nó rất minh bạch, khác hẳn với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn khi các sở thuế các tinh đang không biết đằng nào mà lần với các thu nhập của giới này, những người có thể cũng có thu nhập rất cao nhưng cũng rất khó xác định mức chịu thuế và cũng không dễ thu được đủ thuế của họ. Vấn đề là còn có bao nhiêu người có khả năng như thế, hoặc có thể hơn thế, còn chưa dược sử dụng đúng nơi và đúng chỗ, như trường hợp ông tiến sỹ ở Đại học Công nghệ Cần Thơ.
Câu chuyện của năm 2015 xem ra đã đi đến nút thắt trong sự phát triển của nước nhà: để phát triển cần có nhân lực khoa học và công nghệ.
Vậy mà Việt Nam lại đã chuẩn bị cho nguồn nhân lực này từ rất lâu rồi. Ngay từ thời chiển tranh chống Mỹ ở miền Bắc đã có hàng chục nghìn sinh viên được gửi đi Liên Xô và các nước Đông Âu để học tập trong những ngành khoa học và công nghệ hiện đại, và một con số cũng tương đương như vậy ở miền Nam đã được gửi đi Mỹ và các nước Tây Âu cùng vì một mục đích như thế. Còn từ ngày Đổi Mới và mở cửa đến nay dòng du học vẫn tiếp tục không ngừng không nghỉ, nay thì hàng năm các gia đình trung lưu ở nước ta đều có gắng gửi một con đi học nước ngoài, chỉ có điều khác biệt là các bậc cha mẹ giờ đây không yêu cầu con nhất thiết phải trở về xây dựng đất nước như các bậc phụ huynh thời chiến tranh ngày xưa nữa, mà suy nghĩ của họ, có lẽ qua kinh nghiệm bản thân, còn thoáng hơn: nếu có thể thì kiếm việc ở đâu có thể. Và ví dụ hay được họ đưa ra nhất lúc này là: hãy noi gương ông giáo sư Ngô Bảo Châu ấy, học xong ở lại bên kia làm việc và nay thì Tây hay ta đều trọng vọng…
Cho nên, cái gọi là thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao trên thực tế chỉ là câu chuyện những người đi học về khoa học và công nghệ phải đắn đo nhiều khi quyết định có trở về nước làm việc hay không. Tức là câu chuyện sử dụng người hiền tài đang còn quá nhiều bất cập. Vì mấy lý do.
Vì cách ứng xử với người có chuyên môn trong các cơ quan nhà nước của ta nhiều khi chưa phù hợp với chuẩn chung của thế giới: trọng chức vụ quản lý chứ không trọng chuyên môn và nhiều người làm quản lý không thông thạo chuyên môn, trong khi người quản lý tại các cơ quan khoa học đúng ra chỉ là người hỗ trợ, thoả mãn các nhu cầu để các nhà khoa học có thể làm tốt công việc chuyên môn của mình. Tệ hơn, những ý kiến sáng tạo của các nhà khoa học có thể không được coi trọng nếu họ không có chức vụ. Nên có một thực tế ở ta ai cũng biết là làm chuyên môn thì nghèo hèn trong khi làm quản lý thì dễ có danh, giáo sư hay viện trưởng… này nọ, mà thu nhập thì lên nhanh như nước lũ mặc dù những người làm khoa học, công nghệ thật sự mới là người làm ra của cải thật cho xã hội và làm giàu nhanh cho xã hội.
Vì môi trường xã hội vi mô, nơi làm viêc, ở nước ta không khuyến khích người làm khoa học và chuyên sâu: người Việt có truyền thống cào bằng, hoà đồng trong khi người làm khoa học và công nghệ lại thường nổi trội, tách biệt và hướng vào nội tâm. Xu hướng đó cùng với thời gian không những không bị loại bỏ mà còn được tăng cường qua những phong trào của thời bao cấp và thi đua XHCN. Người tài không tìm thấy được sự ủng hộ và chia xẻ của cộng đồng trong công viêc nghiên cứu, tìm tòi và sáng tạo của mình, và họ cảm thấy khó làm việc.
Và vì chế độ lương của nước ta rất là kỳ dị: lương không đủ sống nhưng ai cũng sống đủ. Để có thể sống đủ người ta phải làm đủ thứ, phần nhiều không liên quan đến chuyên môn, cái mâu thuẫn về bản chất với tính chất công việc khoa học và sáng tạo là phải rất chuyên sâu và tập trung. Người có tài lo làm việc của mình, không thể bon chen để kiếm thêm một vài cái phong bì được nên họ không đủ sống, kém thu nhập hơn so với đồng nghiệp khác kém tài hơn họ.
Kết cục là khả năng sử dụng người tài trong làm việc cứ bị mai một dần, và nay thì để sản xuất ốc vít hay bao bì cho các hãng nước ngoài doanh nghiệp người Việt cũng khó mà đảm nhận được, còn năng suất lao động của Việt Nam đang có xu hướng ngày càng tụt xa hơn so với các nước láng giềng.
Như vậy đó, thể chế kinh tế nước nhà rất cần thay đổi, theo nhận định của các nhà kinh tế và tại các diễn đàn của Quốc Hội, nhưng lại chưa thể thay đổi.để đất nước có thể tận dụng được sức mạnh của khoa học và công nghệ, để có thể làm việc được với những người có trình độ và để có thể bắt họ phải làm việc hết sức mình vì sự hùng cường của Tổ Quốc. Trong lúc chờ đợi, thôi thì những người hiền tài chịu khó nghe lời hiệu triệu của ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc Hội, lúc cuối năm vậy: ’’Tôi mong rằng các tài năng trẻ hôm nay sẽ tiếp tục và không ngừng nỗ lực, phấn đấu để trở thành những hiên tài của quốc gia. Đất nước càng có nhiều hiền tài thì càng hưng thịnh. Thành công của các bạn sẽ làm cho hai tiếng Việt Nam được nâng lên trên trường quốc tế’’.
Một năm nữa lại qua đi, chợt nhớ lại lời dặn dò khi xưa của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân ngày khai giảng đầu tiên của nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà… mới đấy mà đã 70 năm rồi, mà nước mình vẫn nghèo mà hiền tài vẫn băn khoăn chuyện không biết nên về hay nên ở lại….
Những gam màu sáng tối trong phát triển công nghệ cao
PGS;TS Phạm Bích San