Những kỷ niệm về anh hùng quân đội La Văn Cầu (phần II)
Anh La Văn Cầu sinh năm 1932 dân tộc Tày, quê xã Phong Nậm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Năm 1948, 16 tuổi anh khai tăng tuổi nhập ngũ vào đại đội 671, đơn vị địa phương Cao Bằng của quân đội Việt Minh (khi đó gọi là Quân đội Quốc gia Việt Nam, từ năm 1950 gọi là Quân đội Nhân dân Việt Nam), trong 4 năm anh đã tham gia chiến đấu 29 trận lớn nhỏ, trận phục kích trên đường Bông Lau - Lũng Phầy (Cao Bằng – Thất Khê năm 1949), anh đã cùng đồng đội xung phong, bắn chết tên lính trên xe tăng rồi nhảy lên xe dùng súng địch trên xe diệt thêm 10 tên, năm 1950 được kết nạp Đảng Cộng sản.
Gặp gỡ trò chuyện với lớp trẻ là niềm vui của anh |
Do thành tích trong chiến đấu, ngày 19 tháng 5 năm 1952, anh được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, khi đang là tiểu đội phó thuộc Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Cùng năm đó, ông được trao tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc theo Sắc lệnh số 107-SL ngày 10 tháng 8 năm 1952. Nghe chuyện anh kể, tôi thấy anh đúng là người sinh ra là để làm anh hùng.
Trận Đông Khê kết thúc, bị thương mất một cánh tay, lõm một bên má, đi xiêu bên này, vẹo bên kia như người say rượu mà dân công cáng thương bắt anh lên cáng anh không chịu mà bảo các cô cứ đi khiêng các đồng chí bị thương nặng hơn đi, tôi còn 2 chân, còn đi được. Cứ thế bập bõm trèo đèo lội suối đi 4km đường rừng về trạm phẫu thuật tiền phương, khát không dám uống nước suối, mệt không dám nằm sợ thiếp đi. Cánh tay anh bị hoại tử các bác sỹ phải cưa cụt đến gần bả vai. Anh bảo bác sỹ còn để lại cho mười phân để mắc màn.
Anh tâm sự, lúc đầu mất tay buồn lắm, bây giờ biết cầm cày thế nào đây? Rồi cấp trên cho anh đi học văn hóa, anh tâm sự, đánh vật với con chữ và bài toán còn khó hơn đánh giặc, nhưng cũng phải quyết tâm thôi, chẳng lẽ thấy khó lại bỏ.
Sau này làm Trưởng Ban Thanh niên rồi Phó phòng Tổ chức quân khu, Phó giám đốc bảo tàng Quân đội, cấp trên, cấp dưới đều ưu ái mình, mình cảm động nhưng cũng buồn lắm, sức khỏe mình không bảo đảm, năng lực có hạn, tự biết lắm chứ cùng một việc mình phải cố hơn người mới xong. Phẩm chất anh hùng của anh còn thể hiện rõ trong cuộc sống đời thường. 80 tuổi hai lần lên bàn mổ dạ dày và tắc ruột, bác sỹ bảo gia đình phải ký cam kết, anh xuề xòa: Tôi ký cũng được mà! Các bác sỹ đều công nhận anh vô tư và lạc quan nên bệnh mau khỏi. Các bác sỹ bảo: bác không chỉ anh hùng trong chiến đấu mà còn là anh hùng trong cuộc chiến chống bệnh tật.
Gia đình anh La Văn Cầu |
Tôi hỏi anh còn nhớ ai đã chặt tay hộ anh không? Sao lại không nhớ đó là anh Nông Văn Pheo, tiểu đội trưởng xung kích người Nùng quê ở Đông Khê, anh ấy biết tôi là con một, anh giục tôi, thôi Cầu bị thương lui về sau đi, để chúng mình đánh tiếp, nhưng tôi không nghe, tôi phải gắt lên anh mới lấy lưỡi lê Nhật cắt bàn tay phải còn dính thịt da bèo nhèo và băng tạm cho tôi.
Lúc ấy còn thì giờ đâu mà đắn đo, quên hết đau. Anh bảo, anh Pheo sau này đã hy sinh ở một trận khác. Nói đến anh Cầu không thể không nhắc đến chị Thanh, vợ anh, chiến sỹ thi đua toàn quốc năm 1952, một phụ nữ nhỏ nhắn, tháo vát, bây giờ cũng đã hơn 70 tuổi, một mình tần tảo nuôi bốn người con La Thị Hồng Mai, La Hồng Minh, La Hồng Anh và La Thị Hồng Điệp, trưởng thành.
Anh Cầu nói với tôi, chú không biết thôi, trăm việc nhà tôi lo cả, tôi thì tàn tật thế này, chú nhớ thời bao cấp không? Vợ đói, con đói, mình thì ở xa, vài tháng mới về được một lần. Anh đùa vui, thỉnh thoảng làm cái gì phật ý, bà ấy có mắng mình vẫn cứ vui, vẫn thương, vì bà ấy hy sinh cho mình và con cái nhiều quá rồi.
Bây giờ tôi cũng về hưu rồi, thỉnh thoảng vẫn sang chơi với anh nhắc lại thời ở quân khu Việt Bắc. Anh vẫn vậy, vô tư, lạc quan, yêu đời. Mỗi khi nhắc đến quê hương Cao Bằng anh vẫn rưng rưng. Anh ngậm ngùi, đó là nơi tôi sinh ra và lớn lên, nơi tôi đã chiến đấu, đã để lại một phần xương thịt ở đó, nơi đầy ắp những kỷ niệm vui buồn. Nhớ lắm!
HPT