Platôn - nhà Sư phạm, nhà Tư tưởng, nhà Triết học vĩ đại
Platôn thuộc dòng dõi quí tộc họ Aristôc, người Aten, sinh năm 427 TrCN. Ông được giáo dục bài bản, theo hướng bách khoa.
|
Từ khi còn trẻ, Platôn đã tỏ ra am tường nghệ thuật, rất giỏi thi ca và nhạy bén về chính trị, nhưng triết học đã thu hút tâm trí của ông bởi tính chất khúc triết, rành mạch và cao thượng của nó. Với trí tuệ uyên bác tuyệt với, vầng trán cao và vẻ mặt suy tư trên thân hình vạm vỡ nên thầy dạy đã gọi Aristôc là Platôn.
Cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư (492 - 479 TrCN) làm cho Hy Lạp suy tàn, Aten bắt đầu vươn lên nắm quyền làm chủ các thành bang và kiểm soát toàn bộ mặt biển Êgee. Chế độ dân chủ của Anten được phát huy rộng rãi, quyền lực của quí tộc Aten bị xóa bỏ đã tạo ra một động lực mới thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của Aten. Aten trở thành một trung tâm kinh tế hùng mạnh với nền công thương nghiệp và hàng hải cực thịnh, nền chính trị, văn hóa, xã hội đạt đỉnh cao rực rỡ và trở thành cái nôi của khoa học, nghệ thuật với những tên tuổi lừng lẫy: Hêrôđôt, Aristôphan, ơpirit...
Thời hoàng kim của Aten cũng nhanh chóng qua đi bởi cuộc chiến tranh tàn khốc giữa Aten và Spactac (431 - 404 TrCN). Sau cuộc chiến, Aten lụi tàn, chế độ thành bang Hy Lạp suy sụp và nhiều nền tảng xã hội biến đổi.
Platôn sinh ra và lớn lên trong thời kỳ chiến tranh đó, ông đã vượt qua mọi khó khăn để tiếp thu những tinh hoa trong học thuyết của nhà triết học lỗi lạc Hylạp cổ Sôcrat, ông cũng ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của Hêraclit và Pacmenit. Ông đã thăm các thành bang trong quốc gia Hy Lạp, đã đến Xyry (châu Phi) đã tới Ai Cập, gặp gỡ trao đổi với các học giả phái Pytagor.
Năm 387 tr.CN, Platôn trở về Aten và dựng lên một trường học trong cánh rừng phía Tây Bắc Aten, cạnh mộ Academus - một vị anh hùng trong thần thoại Hy Lạp, từ đó trường được gọi là Học viện - Academy. Trong Học viện ông không chỉ dạy triết học mà còn dạy số học, thiên văn học, kỷ hà học, thanh học... Với cách dạy hoàn toàn mới gắn với biện chứng pháp và dựa vào tư duy độc lập của lý trí để phát huy sáng tạo. ở đây, thầy không thuyết giảng theo giáo trình chuẩn bị trước mà nêu ra vấn đề cho học sinh tranh luận, thông qua hội thoại, đối đáp để tìm ra chân lý. Cách thức dạy học đó trở thành chuẩn mực cho giáo dục ở châu Âu và thế giới cho đến tận ngày nay,
Với trí tuệ và đạo đức tuyệt với, Platôn có nhiều thời cơ để đạt tới đỉnh cao danh vọng nhưng ông đã từ chối mọi chức tước, bổng lộc, nguyện hiến trọn đời mình cho triết học. Nhiều tác phẩm khoa học của ông còn được lưu truyền đến ngày nay, qua đó khẳng định Platôn là nhà triết học vĩ đại, nhà tư tưởng vô song, là tác gia bậc nhất của Hy Lạp cổ đại và ảnh hưởng của ông đến văn hóa phương Tây không ai sánh kịp.
Ngày nay, nói đến triết học cổ đại là phải nhắc tới Platôn và những cống hiến vô giá của ông.
Trước ông, người ta tập trung nghiên cứu vũ trụ cao xa, còn Platôn hướng sự nghiên cứu vào chính con người, nghiên cứu mối quan hệ giữa tư tưởng, tinh thần của con người với thế giới xung quanh. Ông đã chỉ ra vai trò quan trọng của ý thức, coi tư tưởng là đối tượng nghiên cứu của triết học và cho rằng tư tưởng là một thể thống nhất, một yếu tố không thể thiếu của nhận thức luận và trở thành vấn đề quan trọng - Vấn đề cơ bản của triết học: Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
Platôn là người đưa ra phương pháp nghiên cứu mới kết hợp triết học với toán học và khoa học, là người khởi xướng chủ nghĩa duy tâm khách quan, người sáng lập các bộ môn logic học, siêu hình học và triết học đạo đức. Biện chứng pháp của Platôn dẫu chưa hoàn thiện, còn có những yếu tố của tượng trưng và thần thoại nhưng là một thang bậc cao của quá trình nhận thức. Trong phép biện chứng của mình ông đã nói đến sự vận động và phát triển, đến mâu thuẫn bên trong, đến tính chất phủ định, đặc biệt là ông đã đề caotri thức, coi tri thức là dạng đặc biệt, là tầng sâu của nhận thức và nói đến thực tại với tính phổ quát của nó và đa dạng hơn sự vật đặc thù.
Thuyết “hồi ức” và “linh hồn bất tử”, chủ nghĩa thần bí, quan niệm về sự độc lập giữa linh hồn và thể xác cùng nhiều luận điểm khác của ông, thông qua chủ nghĩa Platôn mới đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc hình thành và phát triển đạo cơ đốc giáo. Về cơ bản, thần học và triết học cơ đốc giáo trước thời Phục hưng đều phỏng theo tư tưởng Platôn.
Platôn không chỉ cống hiến cho triết học, thần học và tôn giáo mà còn có những đóng góp đặc biệt cho thiên văn học và số học. Thuyết Địa tâm (Trái đất là trung tâm) và lý luận của Platôn về vận động là gợi ý quan trọng để thuyết Nhật tâm (Mặt trời là trung tâm) ra đời. Quan niệm Tuyến (đường) là do nhiều điểm (chấm) liên tiếp tạo thành có tác dụng đến môn toán giải tích của Niutơn và Lainit. 4 nguyên tố sinh thành vũ trụ theo quan niệm của Platôn là: lửa, đất, khí, nước là do hai hình tam giác cơ bản tổ chức thành lập thể kỷ hà rất gần gũi với phát minh của vật lý hạt nhân hiện đại.
Thành bang Athen một thời sầm uất. Ảnh minh họa |
Mặc dù Palatôn đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm khách quan trong quan niệm về thế giới, mặc dù Platôn đã không thừa nhận nhận thức cảm tính là một giai đoạn trong quá trình nhận thức, mặc dù lý luận nhận thức của Platôn còn mang tính duy tâm, và mặc dù quan niệm về chính trị xã hội của ông còn nhiều mâu thuẫn nhưng những cống hiến của ông cho nhân loại là vô cùng to lớn.
Không chỉ công dân của các thành bang Hy Lạp tự hào về Platôn mà toàn thể nhân loại, những người yêu triết học, toán học, thiên văn học, thần học... đều tỏ lòng tôn kính và kiêu hãnh khi được tiếp thu lượng tri thức đồ sộ và tinh tế của ông - nhà bác học vĩ đại từ gần 2.500 năm về trước - ở thời điểm lịch sử mà nhiều dân tộc còn chưa bước tới ngưỡng cửa văn minh.
Lời bàn:
Platôn vừa là nhà triết học, vừa là nhà thông thái - bách khoa toàn tư. Ông đến với triết học vì khát khao muốn giải thích và tìm hiểu thế giới. Hệ thống quan điểm khoa học của Platôn đồ sộ và đa dạng trong đó có nhiều luận điểm phù hợp với qui luật khách quan, tiên tiến đi trước thời đại, cũng có luận điểm còn hạn chế, thậm chí sai lầm nhưng tất cả đều ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa văn minh nhân loại.
Platôn là người vừa đặt nền móng cho tri thức và khoa học phát triển nhưng ông cũng đồng thời là người mở đường cho con người đến với cõi thần thánh siêu nhân huyền bí. Có lẽ sự tài ba và vĩ đại của nhà hiền triết chính là ở chỗ đó.
NT