Trăn trở cho đổi mới giáo dục đại học Việt Nam
Nếu nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục phổ thông là tạo ra những công dân tốt cho xãhội, cho đất nước, thì nhiệm vụ chính của giáo dục đại học là cung cấp nguồn nhân lực cóchất lượng cho nền sản xuất để tạo ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội.
Trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, trong xu hướng toàn cầu hóa và phát triển nềnkinh tế tri thức, giáo dục đại học có vai trò chủ đạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục của một quốc gia.
Phải thừa nhận rằng giáo dục đại học Việt Nam trong suốt thời gian qua đã cónhững đóng góp rất lớn cho cuộc đấu tranh giải phóng và xây dựng tổ quốc, nhất là trongquá trình phục hồi và chấn hưng nền kinh tế đất nước.Tuy nhiên, đã một thời gian dài chúng ta để cho giáo dục tụt hậu khá xa so với các nướctrong khu vực và trên thế giới. Sự phát triển của giáo dục chưa tương xứng với sự phát triểncủa nền kinh tế.
Theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các hội nghị, hộithảo về giáo dục, đào tạo, trên diễn đàn quốc hội…vấn đề đổi mới hệ thống giáo dục, đặcbiệt là đổi mới giáo dục đại học luôn được đề cập đến. Vấn đề này cũng đã thu hút được sựquan tâm không chỉ của các giảng viên, những chuyên gia, những nhà quản lý giáo dụctrong ngành, mà còn thu hút được sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, các học giả trong vàngoài nước cùng đông đảo các tầng lớp dân cư, các tổ chức, các nhóm xã hội khác nhau.
Điều đó không chỉ cho thấy tính cấp bách của vấn đề, mà còn chứng tỏ truyền thống hiếuhọc, coi trọng phát triển nhân tài của dân tộc Việt Nam nói chung. Trong phạm vi bài viếtnày, chúng tôi không thể đề cập đến tất cả vấn đề nằm trong sự quan tâm, trăn trở của xãhội, mà tập trung xem xét ở hai khía cạnh chủ yếu sau:- Sự cần thiết phải đổi mới giáo dục đai học,- Phân tích các ý kiến về hướng đi và các giải pháp cho đổi mới giáo dục đại học ViệtNam
1. Sự cần thiết phải đổi mới giáo dục đại học: Quan sát trên các diễn đàn, dưới nhiều góc độ khác nhau, khi nói về hệ thống giáodục đại học Việt nam, ý kiến của hầu hết các nhà giáo dục, các nhà quản lý, các chuyên gia và các nhà doanh nghiệp đều thống nhất ở điểm: Giáo dục đại học Việt Nam cần thiết phải đổi mới.
Các số liệu thống kê, những phân tích, những kết luận cho thấy giáo dục đại họchiện nay đang có nhiều yếu kém, bất cập. Những bất cập đó có thể tìm ở khía cạnh số lượng,khi mà tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi 20-24 đang được đào tạo trong các trường đại học ởViệt Nam chỉ chiếm 10%, trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan là 41%, Hàn Quốc là 89% và ởTrung Quốc là 15% (Nguồn: Dantri.com.vn, ngày 7/8/2007). Số sinh viên trên vạn dân hiệnnay ở nước ta là khoảng 120, trong khi đó con số này ở Thái Lan là 400 sinh viên.
Theo chủ trương của Chính phủ Việt Nam nhanh chóng phát triển và nâng cấp các trường đại học thìđến năm 2015 chúng ta sẽ phấn đấu đạt 300 sinh viên/ 1 vạn dân và đến năm 2020 sẽ đạt đến con số của Thái Lan hiện nay (Trần Ngọc Châu, Ra biển lớn với 600 đại học, trongGiáo dục đại học Việt Nam thời hội nhâp).Vài năm gần đây, đăng ký tham gia kỳ thi tuyển sinh vào các trường đại học thường ở vàokhoảng 1,6 – 1,8 triệu lượt thí sinh, nhưng hệ thống các trường đại học chỉ có khả năng đáp ứng được khoảng 1/5 đến 1/6 số lượng trên.
Về mặt quản lý nhà nước đối với giáo dục đạihọc cũng không đồng nhất, mạnh ai lấy làm, không đồng bộ. Bộ GD&ĐT cũng chỉ quản lýgần 30% các trường đại học cao đẳng trong toàn quốc. Đội ngũ giảng viên ở các trường đạihọc dường như ít thay đổi trong suốt 17 năm qua, nhưng cũng trong khoảng thời gian đó số lượng sinh viên đã tăng lên gấp đôi, tức là từ 150 ngàn tăng lên 300 ngàn.
Mặt khác số giảngviên có trình độ tiến sỹ cũng rất thấp, chỉ chiếm khoảng 10%, trong khi đó tỷ lệ tiến sỹ trongđội ngũ giảng viên trong các trường đại học mức trung bình ở phương Tây là khoảng 70%;số giảng viên là giáo sư, phó giáo sư cũng rất thấp (giáo sư chiếm 0,1%, phó giáo sư chiếm khoảng hơn 5% trong số giản viên) (Nguyễn Văn Tuấn, Chất lượng giáo dục đại học: bắt đầu từ thày và kết thúc ở trò, Dien dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France)Ở khía cạnh chất lượng, tuy đã có những bước tiến triển nhất định, nhưng so với mứcđột phá về chất lượng giáo dục ở các trường đại học các nước trong thời gian qua, thì chất lượng giáo dục đại học Việt Nam được nhiều người coi là sự tụt hậu lớn.
Hệ thống giáo dụcđại học hiện đại ở Việt Nam có lịch sử tồn tại từ nhiều năm nay, nhưng vấn đề kiểm định vàđảm bảo chất lượng đào tạo cũng mới chỉ được nhắc đến trong vài năm gần đây. Hiện nay,cả nước đã có hơn ba trăm trường đại học, song dường như chưa có trường đại học nàobước được vào trong bảng xếp hạng các trường đại học của các tổ chức có tên tuổi trên thế giới.
Hơn nữa, khi xem xét chất lượng đào tạo theo 4 tiêu chí chất lượng của sinh viên tốtnghiệp: kiến thức tổng quát (bao gồm kiến thức về xã hội, thông thạo kỹ thuật vi tính, tiếngAnh…), kiến thức chuyên môn, kĩ năng phát hiện, đặt và giải quyết vấn đề và tiêu chí nhâncách chúng ta thấy chất lượng đào tạo của các đại học nước ta còn quá hạn chế.
Trong nhiều cuộc hội thảo, trao đổi giữa các cơ sở đào tạo đại học với các nhà doanh nghiệp, lãnh đạocác tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học, chúng ta đều nhận được các ý kiến về những cáiyếu của sinh viên Việt Nam là: yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu kỹ năng giao tiếp côngchúng và làm việc nhóm, thiếu khả năng vận dụng giải quyết vấn đề, yếu về kĩ thuật vi tínhvà tiếng Anh… Nhiều nhà doanh nghiệp cho rằng thực tế chỉ khoảng 10-30% số sinh viên tốt nghiệp là có thể đáp ứng được những yêu cầu cơ bản cho lao động của doanh nghiệp,còn đối với đa số trường hợp khi tuyển dụng, doanh nghiệp phải chấp nhận việc đào tạo lại.
Còn tiếp