A Ma Kông trên đất Ba Vì
Anh Đạt tổ trưởng dân phố của tôi nguyên là cán bộ đối ngoại của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rủ tôi lên thăm ông Nguyễn Hữu Trọng, bạn vong niên của anh, một “dị nhân” trên đất Ba Vì. Bởi chưa bao giờ gặp ông bác sỹ này, chỉ biết về ông qua những thông tin trên google nên tôi rất tò mò.
BS nguyễn Hữu Trọng (Bên trái) và ông bạn vong niên |
Con đường 32 lên Sơn Tây bây giờ quá phẳng phiu, sau 60 phút chạy xe chúng tôi đã lên gần đến Ao Vua một địa danh du lịch nổi tiếng của xứ Đoài và tìm đường vào Tuệ Tĩnh Đường của kỳ nhân Nguyễn Hữu Trọng. Trong suốt chặng đường, anh Đạt giới thiệu về người bạn vong niên đa tài, đa tình, một người thông minh, năng động, luôn có các ý tưởng mới và luôn quyết tâm thậm chí mạo hiểm thực hiện các ý tưởng đó. Khi gặp và trò chuyện, cảm nhận của tôi về ông Trọng, đó không chỉ là một con người cởi mở, dễ gần, mến khách và tư duy rất nhạy bén, sâu sắc.
Biết tôi làm một tờ Tạp chí Văn hóa, ông trao đổi về tôn chỉ của tạp chí với văn hóa, truyền thống, với phát triển và kết lại “trở về với nguồn cội”. Ngắn gọn và rõ ràng. Cảm giác gần gũi mến thân càng tăng khi ông trao đổi với tôi bằng tiếng dân tộc thiểu số về một vài vấn đề văn hoá, đời sống với cách phát âm khá chuẩn. Ông nói, từ những năm 50 của thế kỷ trước ông đã gắn bó với bà con các dân tộc Việt Bắc, một quãng đời có rất nhiều kỷ niệm, thậm chí chi phối ông trong nghề nghiệp sau này. Cũng như mọi người, không ai cưỡng lại được với thời gian, gương mặt ông nói lên điều đó nhưng trí tuệ ông vẫn minh mẫn, cơ thể vẫn tráng kiện, thần thái rất linh hoạt, sinh động và trẻ trung.
Tôi đọc khá nhiều bài của đồng nghiệp viết về ông, càng về sau mọi người càng tập trung khai thác các chi tiết câu khách như ông hơn vợ thứ tư đến 51 tuổi, hơn 80 tuổi vẫn có 2 đứa con xinh xắn mà không “ còi cọc” chút nào; ông tỏ tình bằng thơ; và đã ở tuổi “cổ lai hy” rồi nhưng lửa tình vẫn rừng rực cháy, “khoản ấy” vẫn như thanh niên… Không sao cả, nhưng tất cả những chi tiết đó không làm bật lên được căn cốt của con người đặc biệt này. Cái làm nên sự lấp lánh của cuộc đời ông chính là ý chí vươn lên không ngừng, là sự năng động, tự tin và dấn thân thực hiện những ý tưởng của mình, điều mà không ít người Việt Nam ngại nghĩ, ngại làm nên cứ an phận với nghèo đói và lạc hậu.
Ông Trọng với NSUT Trần Tưa |
Về chuyện đời tư của ông, học tập các đồng nghiệp, tôi cũng muốn câu view một tý. Ông Trọng có 4 người vợ. Người vợ đầu tiên lấy nhau vì không có tình yêu và họ chia tay trong hòa bình, người này không ảnh hưởng lắm đến cuộc đời ông. Người vợ thứ ba là cô gái được ông cứu thoát từ một động mại dâm trá hình. Năm 2000, sau ba năm sống với ông, “ngựa quen đường cũ”, cô đã bỏ lại con nhỏ, lấy trộm 500 triệu đồng của ông rồi trốn đi biiệt tích. Người vợ thứ hai thì thật đáng tiếc, đã có với nhau ba người con nhưng bà không đủ bản lĩnh và tình yêu để đi với ông đến cùng kiệt cuộc đời. Tự ái và cố chấp đã khiến bà đánh rơi viên ngọc quý. Nỗi buồn bà để lại trong cuộc chia tay ông trút cả vào thơ: “Tôi với bà sống với nhau/ Nỗi buồn cũng có, đớn đau cũng nhiều/ Niềm vui chẳng được bao nhiêu/ Giờ hai ta đã xế chiều bà ơi/… Bà vui, tôi lại càng thương/ Bà buồn, tôi tự trách luôn cả mình…/Cuộc đời ngắn ngủi làm sao/Nếu tôi đi trước, thế nào bà ơi/ Bà vui, đừng buồn vì tôi/ Hẹn nhau ta lại tái hồi kiếp sau”.
Người vợ thứ tư của ông là một cử nhân Sư phạm Văn. Hẳn chị phải yêu lắm, cảm phục lắm, và phải bản lĩnh lắm mới có thể vượt qua được miệng lưỡi thiên hạ để đến với ông, chị đã quyết “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Với chị đúng là: “Mây trắng hỡi xin đổi cho người đấy/ Mái tóc xanh này để bạc trắng như nhau” Lấy ông, không phải để hưởng thụ, để chơi bời cho thỏa mà bảo chị ham tiền bạc, ham tài sản của ông. Chị vẫn chăm chỉ lao động, vẫn tần tảo lo toan, vẫn cần mẫn thu vén, vẫn sống đúng chất của người phụ nữ miền núi. Phẩm chất cao quý ấy của người vợ trẻ là niềm tự hào và bù lấp những khoảng trống cuộc đời để lại trong lòng ông. Tôi đánh giá cao tình yêu của chị. Chuyện tình duyên của đời ông đầy trắc trở nhưng có thể nói là có hậu. Hai thiên thần Phúc và Đức là niềm hạnh phúc vô bờ của vợ chồng ông. Hình ảnh cậu bé Đức chưa đầy 4 tuổi, khôi ngô, lanh lợi, bưng rượu lên mời khách và làm nũng bố để lại nhiều cảm xúc trong tôi.
Sinh năm 1930 tại Thị Cầu, tỉnh Bắc Ninh, quê hương của những làn điệu quan họ, trong một gia đình trí thức thời thuộc Pháp, cha ông là kĩ sư khai thác mỏ, mẹ làm thư kí cho nhà buôn nổi tiếng Bạch Thái Bưởi, ông ngoại là chủ hãng rượu ở Hải Dương. Sau khi học xong bậc phổ thông ông theo học Đại học y khoa và trở thành bác sỹ. Với tư chất thông minh, ham học hỏi và ý thức trau dồi chuyên môn, ông đã học chuyên sâu nhiều khoa. Học chuyên khoa lao với cố bộ trưởng bộ Y tế Giáo sư Phạm Ngọc Thạch; Học chuyên khoa điện quang (chẩn đoán hình ảnh) với Giáo sư, Bác sĩ Hoàng Sử, thầy thuốc của Nam phương Hoàng hậu; Học chuyên khoa ung thư (u bướu) với Bác sĩ nổi tiếng Lương Tấn Trường và từng là trạm trưởng trạm y tế Châu Phan (Mê Linh); Chủ nhiệm khoa X quang K74; Chủ nhiệm khoa X quang bệnh viện K Trung Ương…
Năm 1974, ông được cử sang công tác tại Ủy ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước (nay là Bộ Khoa học công nghệ); Ở Ủy ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước, ông lại được cử đi học quản lý tại Liên Xô sau đó về làm Thư ký khoa học cho Giáo sư viện sĩ Tôn Thất Tùng, Thư ký chương trình cải tiến bữa ăn nhà nước do Giáo sư viện trưởng Từ Giấy lãnh đạo rồi làm Trưởng ban quản lý tuyên truyền khoa học kỹ thuật của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước. Ông là người đầu tiên phụ trách về nội dung ở triển lãm Khoa học kinh tế kỹ thuật từ những năm 80, Trưởng ban xét thưởng huy chương của triển lãm Giảng Võ.
Nắm được xu thế của thời đại, ông đã học thêm khoa Nội thất của Đại học Kiến trúc, khoa Kết cấu của Đại học Xây dựng để rồi trở thành “nhà thầu tư nhân” ở Hà Nội những năm 90 thế kỉ trước. Ông đã trúng thầu nhiều công trình lớn như trang trí nội thất Cung Văn hoá hữu nghị Việt - Xô, Câu lạc bộ Thăng Long, Restaurant số 6 Hàng Bài, Nhà hàng Thủy Tạ… Với chuyên môn về ngành Y, ông là nhà nghiên cứu cao cấp về cây con làm thuốc và là người đầu tiên nghiên cứu về thực phẩm chức năng ở Việt Nam, sản xuất được nhiều sản phẩm có giá trị được người tiêu dùng ưa thích và thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu về thức ăn bằng thảo dược cho gia cầm, gia súc. Tham gia các công trình, dự án nổi tiếng, ông có những đột phá có hiệu quả như Cao xương ngưa bạch Thăng Long; Tinh bột xoài, Tinh bột gấc Thăng Long; Trà túi lọc Giảo cổ lam, Trà vối… Trong lĩnh vực kinh tế, ông là doanh nhân thành đạt. Trong lĩnh vực khoa học, ông là nhà nghiên cứu nghiêm túc, có trách nhiệm. Các nghiên cứu của ông đều hướng tới phục vụ cộng đồng, đặc biệt là dân nghèo. Trong lĩnh vực xã hội, ông là nhà bảo trợ, bảo trợ và phát huy các giá trị di sản văn hóa, là nhà từ thiện hào phóng.
Vợ con ông BS Trọng |
Đau đáu với di sản Dân ca Quan họ, ông đã lặn lội xuống 39 làng hát truyền thống tuyển chọn 16 em nhỏ có năng khiếu, tài trợ đào tạo, nhiều em đã trở thành các nghệ nhân hát Quan họ nổi tiếng. Ông còn tổ chức và tham gia khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, khám chữa bệnh cho các cháu khuyết tật Trường câm điếc Xã Đàn. Với những đóng góp của ông, Bác sĩ Nguyễn Hữu Trọng, nhà hoạt động văn hóa, khoa học, giáo dục đã được UNESCO trao tặng kỷ niệm chương ngày 15 tháng 05 năm 2009 tổ chức tại nhà Thái học Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Ông còn là một người rất yêu nghệ thuật, làm thơ, sáng tác ca khúc, và đặc biệt đam mê sáng tác ảnh. Ông đã chụp hàng ngàn bức ảnh nghệ thuật. Ảnh của ông không triển lãm, chỉ ngắm để lấy cảm hứng làm thơ, viết nhạc. Cuộc đời ông là cả một quá trình lao động cật lực, nhưng vốn có tâm hồn nghệ sỹ nên người ta vẫn thấy ông ung dung rong chơi, ung dung sáng tạo. Ông kể, có bức ảnh ông đã phải săn cả tháng trời mới chụp được ưng ý. Với người khác ở tuổi ông, người ta đã tổng kết cuộc đời và vui thú điền viên, với riêng ông, nhiều việc dường như mới chỉ bắt đầu, ông vẫn miệt mài với cây con làm thuốc với ý nghĩ thật trong sáng, bà con mình còn nghèo hãy nhớ lời đại danh y Tuệ Tĩnh “nam dược trị nam nhân” và không muốn để dân mình mang bệnh và chết trên đống thuốc.
Dành gần chục năm nghiên cứu, ông đã di thực thành công cây thất diệp đờm (giảo cổ lam loại 7 lá) của người Dao đỏ từ Sapa – Lào Cai về Yên Lập (Phú Thọ) rồi sau đó đem trồng tại trang trại ở Ba Vì. Gần chục năm sống chung với cây thuốc, gắn bó với cây thuốc, theo dõi sự phát triển của cây, tìm hiểu sâu bệnh và các thành phần có giá trị làm thuốc của cây thay đổi như thế nào sau mỗi lần di thực, ông đã có công bảo tồn gen nhiều loại cây thuốc quý. Bác sĩ Trọng chia sẻ, “Có tâm huyết với nghề thì mới có thể cho ra những kết quả nghiên cứu mang tính ứng dụng cao, có thể áp dụng vào đời sống”.
Hiện nay, ở tuổi 88, ông vẫn tham gia công tác xã hội với nhiều cương vị: Chủ tịch hội những người yêu dân ca quan họ Bắc Ninh - Việt Nam; Ủy viên ban chấp hành, giám đốc Trung tâm truyền thông Hiệp hội Thực phẩm chức năng Việt Nam; Ủy viên Ban chấp hành hội Khoa học kỹ thuật lương thực thực phẩm Việt Nam; Ủy viên Ban chấp hành hội Khoa học lâm nghiệp Việt Nam; Giám đốc Trung tâm Nam dược thần hiệu Tuệ Tĩnh Đường… Cuộc đời như tiểu thuyết ngàn trang của Bác sĩ Nguyễn Hữu Trọng khó tóm tắt trong vài ba trang viết. Thật đáng cảm phục ông, một người không bao giờ chịu ngồi yên, một người luôn có những ý tưởng mới, luôn khát khao chinh phục đỉnh cao khoa học, nghệ thuật phục vụ con người. Mỗi người dám nghĩ, dám làm và quyết tâm thực hiện bằng được những ý tưởng của mình để phục vụ cộng đồng như ông là tài sản của dân tộc, là vốn quý đáng trân trọng nâng niu.
Hà Thiện Giang