Có một chuyện tình như thế
Tuy chiến tranh đã lùi xa hơn 40 năm, nhưng câu chuyện tình yêu “có một không hai” giữa anh thương binh hạng ¼ Hoàng Bá Ngôn và người con gái làng biển Quảng Phú (Đồng Hới, Quảng Bình) Phạm Thị Ngạnh vẫn còn được người dân nơi đây nhắc mãi như một câu chuyện cổ tích thời hiện đại, để răn dạy cháu con mình về lòng chung thủy sắt son.
|
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình ngư dân nghèo ở làng biển Phú Hội, xã Quang Phú, học hết cấp hai, Hoàng Bá Ngôn theo học Trường Trung cấp Y tế Quảng Bình. Sau khi hoàn thành khoá học, anh được giữ lại trường làm công tác giảng dạy.
Năm 1970 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào thời kỳ ác liệt. Mặc dù là con một trong gia đình, nhưng đáp lại lời hiệu triệu của non sông, đất nước, Hoàng Bá Ngôn vẫn quyết định viết đơn tình nguyện lên đường đánh giặc cứu nước. Lúc còn ở nhà tham gia sinh hoạt trong Chi đoàn thôn, Ngôn có đem lòng yêu thầm nhớ trộm một người con gái ở cùng xóm, đó là chị Phạm Thị Ngạnh, cô con con gái yêu của mẹ Phạm Thị Nghèng (sau này đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu mẹ Việt Nam anh hùng). Ngày khoác ba lô lên đường nhập ngũ, dẫu biết rằng người còn gái cùng xóm cũng đang có tình cảm với mình, nhưng Hoàng Bá Ngôn vẫn chưa dám ngỏ lời. Mà anh mang theo mối tình thầm lặng đó đi theo suốt chặng đường hành quân.
Sau khi hoàn thành chương trình huấn luyện, trước lúc hành quân vào chiến trường Miền Nam, Hoàng Bá Ngôn được đơn vị cho về thăm nhà mấy ngày. Gặp lại người con gái hàng xóm tuổi tròn 18 tuổi, căng đầu sức sống mà mình đang thầm yêu trộm nhớ, Ngôn đã vụng về ngỏ ý. Dẫu biết rằng anh sắp đi vào chiến trường ác liệt, nhưng vì thương chàng trai nghèo hiền lành, chịu khó và học giỏi, Phạm Thị Ngạnh đã nhận lời yêu và hẹn ước với Ngôn, khi đất nước hoà bình, họ sẽ cưới nhau.
Sau hơn bốn tháng ròng rã, đơn vị 22/91 (đoàn đi B của Quân khu 4 biên chế chủ yếu là cán bộ, công nhân viên nhập ngũ) của Hoàng Bá Ngôn đã hành quân vào đến chiến trường B2, lúc đầu quân số có 540 chiến sỹ, do trúng bom và nhiều nguyên nhân khác, vào đến chiến trường chỉ còn khoảng 200 người. Riêng Hoàng Bá Ngôn, mặc dù luôn yêu thương và nhung nhớ người con gái ở hậu phương mà anh đã ngỏ lời và đính ước, nhưng vì chiến trường hết sức ác liệt, chưa biết sống chết ra sao, sau nhiều đêm trằn trọc nghĩ suy, cuối cùng anh đi đến quyết định viết cho Phạm Thị Ngạnh một lá thư và bảo với cô: “Đừng chờ đợi anh nữa, em lấy chồng đi kẻo lỡ một thời con gái”.
Gửi thư cho Ngạnh rồi, người chiến sỹ ấy thanh thản hơn để bước vào những trận chiến đấu ác liệt. Trong đội hình của Trung đoàn 2, Sư đoàn 9, Quân đoàn 4, Hoàng Bá Ngôn cùng các đồng đội đã tham gia chiến đấu ở nhiều chiến dịch ác liệt ở chiến trường Miền Đông. Trong một trận chiến đấu ác liệt ở khu vực Bình Long, Lộc Ninh để khai thông cửa ngõ đường 13 nối liền biên giới Căm pu chia với Sài Gòn, một quả đạn cối của địch đã rơi trúng trận địa 12ly7, cả khẩu đổi của ta bị thiệt hại nặng nề, riêng Hoàng Bá Ngôn bị thương rất nặng ở trên đầu. Vết thương sọ não, cùng toàn thân bị nhiều mảnh đạn cối găm vào, đồng đội tưởng rằng anh không thể qua nổi, nhưng bằng khát vọng sống và bằng tình yêu dành cho người con gái ở quê nhà vẫn tha thiết đã giúp anh có thêm nghị lực để chiến đấu và chiến thắng thương tật.
Ở quê nhà, mặc dù đã nhận được lá thư “từ chối tình yêu” của Hoàng Bá Ngôn, nhưng Phạm Thị Ngạnh vẫn thấp thỏm chờ đợi tin tức của anh, bởi vì cô luôn tin một điều rằng Ngôn vẫn chưa thể quên được lời đính ước với cô trước lúc ra trận.
Thấy Ngạnh cần cù, chịu khó, nhiều thanh niên trong vùng muốn dạm ngõ hỏi cô về làm vợ. Hiểu được tình ý của con, mẹ Nghèng thật thà từ chối: “Ai đến trước được trước. Con Ngạnh đã có thằng Ngôn rồi”. Mặc dù chưa trở thành con dâu chính thức, những lúc rãnh rỗi, Ngạnh thường ghé lại gia đình Ngôn để đỡ đần, giúp đỡ bố mẹ anh công việc gia đình. Đến tháng 2 năm 1971, cùng với nhiều nữ thanh niên ở xã Quang Phú, Ngạnh gia nhập đoàn dân công hoả tuyến phục vụ chiến dịch Nam Lào - Đường 9.
Cuối năm 1974, Hoàng Bá Ngôn cùng với anh em thương binh trong chiến trường B2 được di chuyển ra Miền Bắc để điều trị. Ở Trạm điều dưỡng thương binh Hà Bắc, biết Ngạnh vẫn còn chờ mình, Ngôn khát khao được gặp lại người yêu cho thoả nỗi nhớ mong sau bao ngày xa cách. Nhưng lúc này, đơn vị dân công của Ngạnh vẫn đang phục vụ chiến đấu tận nước bạn Lào cho nên chị chưa thể ra thăm và gặp anh được.
Đất nước hoà bình và thống nhất, từ Hà Bắc, Hoàng Bá Ngôn đã được chuyển về điều trị ở Đoàn an dưỡng 200 của Quân khu 4, đóng tại Nghệ An. Tuy rất nhớ nhà và nhớ người yêu, nhưng Ngôn vẫn chưa quyết định về quê, bởi vì anh biết rằng trở về trong hoàn cảnh này, mình sẽ trở thành gánh nặng cho bố mẹ già và cả người con gái tội nghiệp mà anh hết mực thương yêu. Nhưng vì quá thương cha, thương mẹ đang ở nhà ngày đêm ngóng trông mình, anh vẫn quyết định viết đơn xin được về quê.
Để đảm bảo cho việc nuôi dưỡng thương binh nặng khi trở về địa phương, Đoàn 200 đã cử cán bộ về xã Quang Phú để thẩm tra hoàn cảnh gia đình Hoàng Bá Ngôn trước khi chuyển anh về quê. Lúc đó, Phạm Thị Ngạnh cùng với đơn vị đã hoàn thành nhiệm vụ phục vụ chiến đấu và trở về địa phương. Đến Quang Phú, người cán bộ của Đoàn 200 gặp Ngạnh đang giúp bố mẹ Ngôn đào giếng trước sân. Nghe người cán bộ giải thích là phải có chữ ký của người thân, thì anh Ngôn mới được cấp trên cho đón về địa phương. Nghĩ đến ngày được đón người yêu về với gia đình, về với mình sau bao ngày cách trở, không cần đắn đo suy nghĩ, Ngạnh đã tự nhận mình là vợ của Ngôn, chị ký vào đơn và hứa là sẵn sàng chăm sóc, nuôi dưỡng anh suốt cả cuộc đời.
Nhiều người ở Quang Phú chưa hề biết đến mối tình chung thủy và lời thề nguyền, đính ước của Hoàng Bá Ngôn và Phạm Thị Ngạnh, nên khi nghe tin anh chị sắp cưới nhau, nhiều người đã không tin, bởi vì Ngôn là một thương binh nặng. Nhiều người ái ngại cho cuộc đời của Ngạnh, bởi vì cô còn rất trẻ trung, lại xin đẹp, có thể lấy được nhiều người xứng đáng với mình. Bỏ mặc ngoài tai những lời can ngăn, đàm tiếu, Ngạnh vẫn quyết định đến với Ngôn bằng một tình yêu chung thủy và bằng sự yêu thương, săn sóc đầy trách nhiệm đối với một thương binh từ chiến trường trở về.
Thời gian đầu mới lấy nhau, cuộc sống gia đình họ gặp rất nhiều khó khăn. Suốt cả ngày tất bật công việc ở Hợp tác xã, chỉ có buổi trưa và tối, chị mới có thời gian để tắm rửa và cơm cháo cho anh. Những lúc trái gió, trở trời, vết thương cũ lại tái phát và hành hạ Ngôn, làm cho anh đau đớn. Nhưng bằng tình yêu thương, chăm sóc tận tình của vợ, Hoàng Bá Ngôn đã vượt qua được nỗi đau bệnh tật. Năm 1976, đúng tròn một năm sau ngày cưới, người con gái đầu lòng của họ đã chào đời. Niềm vui nối tiếp niềm vui, đến năm 1979 và năm 1982 hai đứa con trai kháu khỉnh của họ liên tiếp chào đời.
Mặc dù bị bệnh tình rất nặng, nhưng với trách nhiệm của người lính, người đảng viên, được vợ, con và tổ chức động viên, giúp đỡ, Hoàng Bá Ngôn đã vượt lên được hoàn cảnh của bản thân, vừa đỡ đần giúp vợ công việc gia đình, vừa tích cực tham gia các phong trào ở địa phương. Từ năm 2000 đến 2007, anh được tín nhiệm bầu làm Phó Bí thư Chi bộ, Trưởng Ban công tác Mặt trận thôn Đông Phú; 10 năm liền tham gia Ban Chấp hành Ban đại diện cha mẹ học sinh các trường học trên địa bàn. Hiện nay anh là Chủ nhiệm Câu lạc bộ người khuyết tật xã. Vừa đảm đang, tháo vát công việc gia đình, chị Phạm Thị Ngạnh vừa tích cực, nhiệt tình với các phong trào của xã. Nhiều năm chị được tín nhiệm cử làm Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ tịch Mặt trận xã kiêm cán bộ chính sách.
Phát huy truyền thống cách mạng của gia đình, các con của anh Ngôn, chị Ngạnh đều học hành giỏi giang. Người con gái đầu hiện nay đang công tác tại xã, còn hai người con trai thì tốt nghiệp đại học sư phạm và có công ăn việc làm ổn định.
Thủy chung, chờ đợi trong chiến tranh; tảo tần, dịu dàng chăm sóc chồng, một thương binh bị nhũn não, mắt mờ, chân liệt, mất sức lao động 81% giúp cho anh hồi phục dần dần. Câu chuyện tình yêu và hạnh phúc của Hoàng Bá Ngôn và Phạm Thị Ngạnh thật đáng trân trọng biết bao nhiêu. Nhất là trong thời buổi đồng tiền đang làm biến dạng nhiều giá trị đạo đức hiện nay.
Trương Văn Hà