Nguyễn Bình Phương đi học Trường viết văn Nguyễn Du
Chuyện từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, nhưng nhắc lại chắc không thừa, thế mới biết công tác tổ chức khó lắm thay.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương (ngồi giữa) |
Chuyện có thật, thật đến khó tin, nhưng tôi viết không nhằm chỉ trích, nói xấu hoặc tâng bốc ai cả. Quả thật, nói như ông nhạc của nhà thơ Nguyễn Bình Phương, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến hay nhắc đi nhắc lại câu: “có một thời nó thế”. Tuy nhiên, để tránh phiền hà, tên tuổi cụ thể một đôi người tôi xin được viết tắt.
Nghịch ngợm như quỷ, học hành bình thường, (biết "tạng" của con) nên tốt nghiệp phổ thông trung học, ông bố gửi gắm người em kết nghĩa là trung tá phó Chánh văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu Một cho Bình Phương đi làm nghĩa vụ quân sự để “rèn luyện”. Sau mấy tháng huấn luyện chiến sỹ mới ở sư đoàn 431, binh nhất Nguyễn Văn Bình (tên khai sinh trên các loại giấy tờ) được điều về phòng Tuyên huấn Quân khu với chức danh thủ thư của thư viện Quân khu bộ (thực ra là anh lính coi kho sách). Nhiệm vụ chính của Bình Phương là vừa coi kho sách vừa làm đầu sai cho các bộ phận của Phòng Tuyên huấn quân khu. Những ngày lễ tết, hội hè thì tham gia dán áp phích, leo thang, đóng đinh treo khẩu hiệu, thỉnh thoảng giúp họa sỹ Thế Ngự phết màu thể hiện tranh cổ động, pa nô…Đến khi ông thiếu tướng Trường Xuân, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự Thành phố cảng Hải Phòng tặng tướng Đàm Quang Trung, Tư lệnh quân khu bộ Video một hệ, màn hình màu, vỏ gỗ, Tư lệnh tặng lại phòng Tuyên huấn làm công cụ tuyên truyền, Bình Phương được giao thêm nhiệm vụ đem máy đi phục vụ các cơ quan, đơn vị, địa phương có nhu cầu với những bộ phim đánh nhau chí chát, mờ mờ, ảo ảo để kiếm thêm một chút tiền cải thiện cho phòng.
Thuở ấy, Bình Phương suốt ngày ngồi lỳ trong kho sách, thôi thì Đông, Tây, Kim, Cổ cậu ta ngốn tất. Thỉnh thoảng, cậu ta rụt rè đến tòa soạn báo chơi. Tôi phụ trách tờ báo Quân khu, hồi ấy gọi là bộ phận Báo trực thuộc phòng Tuyên huấn, dở đùa, dở thật tôi bảo: - “ có gì thì viết đi, “đại ca” đăng cho”.
Thế là thỉnh thoảng Bình Phương có thơ đăng báo. Thơ cậu ta hồi ấy trong trẻo kiểu học trò, các cô, các cậu mới lớn thích lắm như nhân ngày nhà giáo Việt Nam, nhớ về mái trường ,cậu viết những câu thơ hiền lành man mác:
“… Bạn có đến xin mái trường nhắn hộ
Rằng hôm nay tôi trở lại đây tìm…”
hoặc: “ Ngang qua trời chim vỗ cánh sóng đôi
Ngang qua tôi em để lại vui buồn không xóa nổi”
Từ những bài thơ, câu thơ như thế, tòa soạn báo nhận được khá nhiều thư bạn đọc (chủ yếu là các bạn trẻ) muốn làm quen với Nguyễn Bình Phương. Bước ngoặt bắt đầu từ khi nhà thơ Đặng Vương Hưng tốt nghiệp khoá ba trường viết văn Nguyễn Du về lại báo (vì anh là phóng viên báo đi học), sau khi xem một số bài thơ Phương sáng tác, Hưng góp ý, động viên, Phương bắt đầu say viết, nhưng vẫn dấu dấu, diếm diếm sợ mọi người biết. Cả phòng Tuyên huấn chỉ có bộ phận làm báo biết Phương có sáng tác. Lúc này, ngoài thủ thư Phương còn kiêm thêm “chức” công vụ cho Trưởng phòng tuyên huấn. Cứ lặng lẽ đọc sách, lặng lẽ làm tròn phận sự của mình sau hơn một năm công tác, Bình Phương được được đi học lớp tìm hiểu và làm hồ sơ xét kết nạp đảng. Thời ấy, so với bè bạn cùng trường cấp III Lương Ngọc Quyến Thái Nguyên đi bộ đội, với một thanh niên thành thị quen lối sống tự do phóng túng, tự làm quen được với lối sống trong quân ngũ như thế cũng không đến nỗi nào.
Chuyện bắt đầu khi Trường viết văn Nguyễn Du tuyển sinh khóa 4 và Nguyễn Bình Phương làm hồ sơ dự thi. Phương thích lắm nhưng sợ trượt thì xấu hổ nên không muốn cho ai biết, cậu nhờ tôi giới thiệu đi dự thi (vì báo Quân khu có con dấu riêng). Hoàn tất thủ tục cậu ta lặng lẽ xin phép nghỉ phép một tuần để xuống Hà Nội dự thi. Nhà thơ Đặng Vương Hưng đã trực tiếp lái chiếc xe Simson mokich màu đu đủ đưa Nguyễn Bình Phương về trường Nguyên Du. Sau đó, in tập thơ và tập văn xuôi đầu tay cho nhà thơ tương lai. Linh cảm thấy có điều gì đó không ổn tôi đã báo cáo sự việc với anh Hoàn bí thư chi bộ và anh Lân trưởng phòng, anh Tuyển phó phòng. Vốn là những người làm công tác Tuyên huấn lâu năm, lại sống rất nhân hậu các anh động viên: - Không sao, Báo giới thiệu hay Phòng giới thiệu đều được, nó mà trúng tuyển càng vinh dự cho phòng ta, Quân khu ta. Khi Bình Phương ở Hà Nội về tôi bảo cậu ta báo cáo với phòng ngay để sửa sai về sự “vô kỷ luật”.
Tôi yên trí là không có vấn đề gì xảy ra, nhưng sự việc không giản đơn như vậy, phức tạp nảy sinh từ khi có giấy báo nhập học, Bình Phương hý hửng báo cáo phòng và sang cơ quan cán bộ làm thủ tục (thực ra cỡ hạ sỹ như Bình do quân lực quản lý nhưng vì đi học đại học một cấp học được quy hoạch nguồn cán bộ lâu dài nên phải qua phòng cán bộ). Khi lên xin chữ ký, Phó cục trưởng Đ truyền đạt ý kiến của cục trưởng Cục Chính trị, không đồng ý cho Phương đi học vì vô tổ chức, vô kỷ luật, tự ý đi thi không báo cáo. Thế là hết bí thư chi bộ đến trưởng phòng lên “thuyết khách” cục trưởng vẫn không lay chuyển. Ngày nhập học càng đến gần Bình Phương càng bứt rứt, cậu ta than thở với tôi:
- “ Em mà không đi học được đợt này thì coi như chấm hết, kiến thức của em rơi vãi hết, làm sao mà thi lại được”. Tôi trấn an Phương, “cứ yên tâm, đã hết cách đâu mà hoảng”.
Trong thâm tâm, tôi rất buồn. Cho cái anh hạ sỹ thủ thư quèn, phụ cấp có 14 đồng bạc một tháng đi học mà khó thế? Chẳng lẽ cứ hết nghĩa vụ cho ra quân là hết trách nhiệm sao? Mà ngày ấy thi vào Trường viết văn Nguyễn Du đâu phải dễ. Tôi thấy thật vô lý. Thủ thư ai làm mà chả được. Tại sao không tạo điều kiện cho lớp trẻ, nhất là những người phát hiện có tài năng. Anh em cùng phòng đều ủng hộ ý kiến của tôi. Nhưng, “quân lệnh như sơn”!
Một hôm đi họp về anh Lân, Trưởng phòng Tuyên huấn Quân khu nói với tôi: - “Chẳng hiểu vì sao mà “cụ” găng thế! Thằng này suốt ngày lầm lũi trong thư viện, có làm mếch lòng ai bao giờ. Khéo mà đợt này không đi học được mày ạ”. Bình Phương thì như người ngồi trên đống lửa, thời gian không còn dài. Thấy tình hình không mấy sáng sủa, tôi bảo Phương, “Thôi để anh đưa chú lên gặp phó Tư lệnh Quân khu.”
Trung tướng phó Tư lệnh về chính trị Quân khu Nguyễn Hùng Phong tiếp chúng tôi rất thân mật. Nắm được sự việc, ông liền điện thoại cho thiếu tướng chủ nhiệm chính trị.
Chúng tôi hết sức bất ngờ trước cuộc trao đổi giữa hai vị tướng: - “Anh Tr này, trường hợp cậu gì ở thư viện ấy, nó đã thi đỗ thì cho nó đi học, giữ làm gì...” chúng tôi nghe rõ chủ nhiệm cục chính trị quân khu “vâng, vâng, vâng ạ, vâng ạ” như bắp rang trong máy thì mừng hết cỡ vội vàng chạy sang nhà chủ nhiệm chính trị để cảm ơn. Ai ngờ vừa lấp ló ở hàng râm bụt đầu hồi, hai anh em đã bị mắng té tát với những ngôn từ khá nặng nề: - “Chúng mày vừa lên gặp phó tư lệnh hả, tao đ... cho đi đấy. Quân đội không cần nhà văn. Quân khu lại càng không cần. Cút đi”. Hai thằng sợ quá chuồn thẳng. Có lẽ ông tướng có chuyện gì đó bức bối nên cáu bẳn, chứ chuyện có gì đâu mà quát tháo nặng lời thế.
Thôi thì “có bệnh vái tứ phương” hôm sau, nhà thơ Đặng Vương Hưng dắt Bình Phương ra Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Thái gặp nhà thơ Hà Đức Toàn chủ tịch Hội, kể “hoàn cảnh” và đặt vấn đề nhờ giúp đỡ. Anh Toàn vốn là giáo viên dạy văn, lại từng làm lãnh đạo cấp huyện, anh ủng hộ ngay, anh bảo: “Thôi bộ đội không cho đi thì chuyển về đây, Hội tạo điều kiện cho đi học rồi còn về thay chúng tớ”. Anh còn đùa, “Nhưng nghe đâu sắp được chuyển thành sỹ quan chuyên nghiệp, có tiếc không?” Bình Phương gãi đầu, gãi tai, “Cháu chỉ muốn đi học thôi!”
Tuy vậy, Hội văn nghệ không thể tự ý nhận người, vì còn tổ chức, còn biên chế. Để tìm lối thoát nhanh, anh Toàn dẫn Bình Phương lên gặp Bí thư tỉnh ủy Nông Đức Mạnh, với lá đơn thủ sẵn trong tay. Cuối những năm 80, thương hiệu “Trường viết văn Nguyễn Du” còn oai và thiêng lắm, bởi mái trường này là nơi nhiều nhân tài văn chương ở nước ta từng học. Biết lý do cuộc gặp và nguyện vọng của Bình Phương, Bí thư tỉnh ủy cầm bút ghi ngay vào góc lá đơn: “Tỉnh ủy Bắc Thái đồng ý tiếp nhận anh Nguyễn Bình Phương về công tác tại Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, đề nghị Hội tạo điều kiện cho anh Phương được đi học Trường Viết văn Nguyễn Du theo giấy gọi.”
Có bảo bối trong tay, cũng muốn đỡ cho quân khu mang tiếng không biết người biết của, tôi lại cùng Bình Phương lên gặp trung tướng Đàm Văn Ngụy, Tư lệnh Quân khu. Vốn cùng là dân miền núi, lại từng tháp tùng “cụ” đi công tác nhiều chuyến, nên quan hệ giữa ông với tôi khá thân tình. Tôi trình bày: - “Chú ạ, Bình Phương nó thi đỗ vào Trường viết văn Nguyễn Du. Trường này mỗi khóa chỉ tuyển đôi ba chục người trong cả nước, vậy mà Cục Chính trị kiên quyết không cho đi, ngày nhập trường đến nơi rồi. Bắc Thái nhận cậu ấy về Hội Văn nghệ để cho đi học đấy chú ạ, vì nó hết thời gian làm nghĩa vụ rồi. Nếu để Bắc Thái cho nó đi học, người ta sẽ bảo mình không biết bồi dưỡng nhân tài, không quan tâm đến lớp trẻ. Ông bảo: - “Ừ, cho nó đi chứ, sao lại giữ”. Rồi ông gọi điện thoại xuống Cục Chính trị Quân khu, chúng tôi lại nghe rõ tiếng dạ ran trong máy.
Lần này hai đứa chắc mẩm sẽ suôn sẻ, nhưng bất ngờ tình huống chuyển hướng khác, thủ trưởng Cục Chính trị Quân khu đồng ý cho Bình Phương đi học song phải kiểm điểm và chỉ đạo hủy quyết định kết nạp đảng. Là chi ủy viên của chi bộ phòng tuyên huấn, tôi thấy vô lý nên đề nghị nếu kỷ luật thì kỷ luật tôi vì tôi khuyến khích Bình Phương đi thi. Cuộc họp xét kỷ luật không thành vì chi bộ không ai đồng tình. Cuối cùng cục chính trị Quân khu đành phải làm thủ tục cho Bình Phương đi học, nhưng nhập học chậm mất một tháng. May mà trường còn nhận.
Hơn hai chục năm đã trôi qua, từ cây bút trẻ, Bình Phương cũng đã bước vào tuổi 50, anh đã viết hàng chục đầu sách, có nhiều cuốn gây được ấn tượng với bạn đọc, bây giờ anh là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Những người biết chuyện trục trặc khi đi học của cậu ta đều còn cả. Anh Lân Trưởng phòng Tuyên huấn về hưu làm phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh tỉnh Thanh Hóa, anh Hoàn bí thư chi bộ về nghỉ hưu ở Hải Dương, anh Thụy trợ lý giáo dục về nghỉ hưu ở Thái Bình, anh Tương trợ lý văn hoá về nghỉ ở Bắc Ninh… Phần lớn trong số họ đều không hiểu được tại sao khi ấy Cục Chính trị Quân khu Một lại không cho Bình Phương đi học. Tại sao họ lại ghét nhà văn, nhà thơ đến thế? Thỉnh thoảng gặp Bình Phương nhắc lại chuyện cũ anh em chúng tôi nói với nhau: “Thôi cũng phải thông cảm cho thủ trưởng!!!"
Phòng Tuyên huấn quân khu Một nơi từng nuôi dưỡng các nhân tài, thời chống Pháp đây là nơi hội tụ đủ mặt các anh tài văn nghệ cỡ nhạc sỹ Đỗ Nhuận, Nguyễn Đức Toàn, nhà thơ Hoàng Lộc, nhà văn Nhị Ca, Cao Nhị... Cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng có nhiều tên tuổi như nhà văn Triệu Bôn, nhạc sỹ Quế Loan, Đàm Thanh, Nguyễn Lầy, Tuấn Long, ,. Sau giải phóng miền nam có Y Phương Nguyễn Quang Tính, Đặng Vương Hưng, Ma Đình Việt, âm nhạc có Văn Thành Nho… Khi lớp này về hưu hoặc chuyển vùng, quân khu Một tuyệt nhiên không còn gương mặt một văn nghệ sỹ nào. Tình trạng ấy kéo dài đã hơn 20 năm. Mãi gần đây mới lại có một sỹ quan tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du về công tác. Chúng tôi vẫn đùa nhau quân khu Một thời ấy quy hoạch cán bộ theo theo cách “tre già măng cụt”. Mới hay, làm quản lý thời nào cũng khó lắm thay. Chuyện qua lâu rồi nhưng nhắc lại âu cũng không thừa.
Hà Phương Thiện