Bom mìn thời hậu chiến: Phía sau những tiếng nổ… Kỳ 2: Xóm “cụt đọt” trên mảnh đất một thời đỏ lửa
Những ngày đầu mới chuyển đến, không ruộng vườn, không nghề ngỗng, tất cả cũng chì vì nỗi lo cơm áo , họ luôn canh cánh khắc khoải được sớm rời bỏ cái nghề “đáng sợ” ấy.
Những “vọng phu” giữa thời bình
“Cụt đọt” là nói theo tiếng miền Trung, có nghĩa là cây mà không có ngọn, mất ngọn, và gần như bao nhiêu năm vẫn cứ thế, không thể phát triển lên nữa. Ở đây, “xóm cụt đọt” ý chỉ những gia đình mà người chồng, người cha đã mất vì bom mìn, chỉ còn những phụ nữ cố gắng bám trụ lại, gắng nuôi con cái, sống chơi vơi như cây cỏ, bữa đói bữa no qua ngày. Đó là cách gọi hài hước nhưng không kém phần chua xót của người dân Quảng Trị đối với thôn 6, xã Hải Thái, một xã nằm ở phía tây nam của huyện Gio Linh, Quảng Trị.
Khi tôi hỏi về những điểm nóng bom mìn, mọi người đều chỉ về Hải Thái. Nơi đi đâu cũng chỉ nghe thấy những câu chuyện về nỗi đau thời hậu chiến. Mà ở Hải Thái, thì thôn 6 một thời được coi như là khu “trời hành” của mối hiểm họa này.
Thời gian trước, thôn 6 còn mang nhiều cái tên khác như “xóm liều”, “xóm tử thần”, hay “làng góa phụ”, “xóm mồ côi”… Và giờ khi bình yên đã trở lại,sau bao nỗ lực cố gắng, không còn cảnh người dân đi rà phá tìm kiếm phế liệu chiến tranh đổi lấy miếng cơm như trước nữa, người ta lại gọi thôn 6 với cái tên “xóm cụt đọt”.
Cũng bởi, rà phá phế liệu chiến tranh trở thành nghề một thời từng là nghề kiếm cơm của đàn ông Hải Thái trên chính mảnh đất mình đang sinh sống, nơi mà cách đây hơn vài chục năm là chiến trường khốc liệt của ta và Mỹ. Cá biệt, có những thời điểm, 100% đàn ông thôn 6 kéo nhau đi rà phá bom mìn, tìm kiếm phế liệu, hàng loạt cái chết thương tâm cũng bắt đầu bởi 2 chữ bom mìn.
Ở đây, người dân phần lớn là ở xứ khác chuyển về sinh sống từ sau ngày thống nhất đất nước. Những ngày đầu mới chuyển đến, không ruộng vườn, không nghề ngỗng, tất cả cũng chì vì nỗi lo cơm áo , họ luôn canh cánh khắc khoải được sớm rời bỏ cái nghề “đáng sợ” ấy. Vì sống chết chỉ là gang tấc nếu không may gặp phải đạn, mìn hay bom còn sót lại trong lòng đất.
Đến mức, người ta còn sáng tác ra cả những câu ca trào phúng để nói về cuộc sống của người dân nơi đây hồi trước : Sáng ra mờ mờ/ vai mang búa tạ/ đuổi theo ngọn lửa/ nổ cái ùm/ tìm không ra giọt máu…
Chiến tranh dẫu lùi xa, nhưng những gia đình có người thân gặp tai nạn trong lúc rà tìm phế liệu thì vẫn dai dẳng một nỗi đau chung, vẫn còn đó những “vọng phu” ở lại, những đứa trẻ mồ côi, những mất mát không thể bù đắp.
8h sáng tìm đến thôn 6, nhưng làng vắng hoe, có chăng là bóng dăm ba người già và trẻ nhỏ đang ngồi chơi trong những ngôi nhà được xây na ná nhau. Chị Nguyễn Thị Phượng, một người dân gặp trên đường cho biết, cao điểm nhất là vào những năm từ 1991 cho đến 1993, những năm đó hễ nghe có tiếng bom nổ là y như rằng hôm sau trong làng lại có đám tang. Những trái bom mìn còn sót lại ấy đã cướp biết bao sinh mạng của người nơi đây và để lại trong làng những ngôi nhà trống vắng đàn ông.
Rồi chị Phượng kể cho tôi nghe về một loạt trường hợp mà chính những người đàn ông trụ cột trong gia đình đã bỏ mạng vì nghề ra phá bom mìn, bỏ lại vợ góa con côi cùng cuộc sống quá túng bẫn bữa đói bữa no, đó là nhà chị Nguyễn Thị Hương, nhà bà Tạ Thị Nga, nhà bà Bùi Thị Cầm, bà Tạ Thị Thảnh…và còn rất nhiều nữa.
Căn nhà của chị Nguyễn Thị Hương nằm ngay trục đường chạy vào trung tâm xã. từ ngày chồng mất, ngôi nhà của chị càng trở nên lạnh lẽo vì thiếu bàn tay chăm sóc của người đàn ông. Nhắc lại chuyện cũ, đôi mắt chị đỏ hoe: “Hai vợ chồng mới cưới và bén hơi nhau tròn 5 tháng thì anh ấy bỏ mẹ con tui ra đi, không còn kịp để nhìn thấy đứa con đầu lòng chuẩn bị chào đời!”.
Cũng bởi chồng chị vì hoàn cảnh quá khó khăn nên đành chọn nghề tháo dỡ phế liệu chiến tranh. Kiếm tiền chưa được bao nhiêu, bom đã nổ, còn lại chị chèo chống 1 mình với cuộc đời.
Hồi ấy chị còn đẹp lắm, nhiều người trong xóm bảo chị cố gắng đi bước nữa, nhưng chị biết rổ rá cạp lại với ai bây giờ khi trong xóm, đàn ông cũng vắng vẻ gần hết theo tiếng gọi của bom mìn, qua xứ khác thì không biết làm gì sinh sống. Với lại, nếu không may gặp phải người chồng rượu chè, cuộc sống của 2 mẹ con lại càng khổ hơn. Chị đành ở lại đi cạo mủ cao su thuê. Cho đến giờ, Hương vẫn không hiểu được bằng cách nào mà mẹ con chị lại vượt qua nổi được những tháng ngày gian khó ấy.
Bà Bùi Thị Cầm (60 tuổi) ở thôn 6, Hải Thái cũng là một góa phụ sau tai họa bom mìn, một mình bà cũng phải nuôi 5 người con. Lúc tôi đến thăm nhà, bà Cầm bảo, hoàn cảnh như bà thì nhiều lắm nhưng bà có may mắn là con cái có nghề khác chứ không phải theo cha mẹ đi phá bom. Bà Cầm chảy nước mắt chỉ đứa cháu ngoại khoe rằng “đây là con của đứa út, đang là giáo viên thể dục thể thao dạy ở huyện Đakrông”.
Hay như gia đình bà Tạ Thị Nga, lúc mới chuyển về thôn 6, suốt cả mấy tháng trời gia đình mấy miệng ăn bữa đói bữa no. Mà hồi ấy cao su cũng chưa có để đi cạo mủ thuê. Bí quá, người chồng đành đi cưa bom và buôn bán phế liệu ngay tại nhà. Hôm bom nổ, may là bà Nga không ở nhà bên cạnh. Lúc chạy về thì cả căn nhà nhỏ của vợ chồng lẫn mảnh vườn đều bị san thành bình địa, chồng và đứa con mới mấy tháng tuổi thì không tìm thấy xác. Hàng xóm láng giềng chặt cói, bện rơm, dựng tạm cho túp lều rách nát. Rồi bà Nga và những đứa con còn lại cũng đành phải rau cháo qua ngày trên mảnh đât đau thương cũ.
Với trường hợp của và Lê Thị Bun thì lại khác. Lúc tôi hỏi, mãi bà mới ngập ngừng: “Chồng tui không chết nhưng đã đi xa…”. Hóa ra, hồi trước, xoay xở đủ thứ nghề mà gia đình bà vẫn không đủ ăn đủ mặc. Chồng bà như bao người đàn ông khác trên mảnh đất này, không tránh khỏi cái nghề kiếm sống từ bom đạn. Trong một lần tháo ngòi nổ, ông bị cụt mất một chân. Tưởng đã sợ hãi, nhưng chồng bà Bun không biết làm gì lại phải trở lại với nghề cũ. Gắng được thời gian ngắn thì giải nghệ, ông bỏ vào nam biền biệt, giờ chẳng thấy về. Vậy là ở đấy lại có thêm một “bến không chồng”.
Dẫn chúng tôi đi 1 vòng quanh thôn 6, chị Nguyễn Thị Phượng bảo, hồi trước, những gia đình “cụt đọt” ở cái xóm này nhiều lắm. Họ đến đây, không biết làm gì ngoài bom mìn, rồi bom nổ, người thân mất. Về sau có nhiều người vẫn còn anh em họ hàng ở xứ khác nên sợ quá mang con cái đi mất. Những người ở lại, là vì họ không biết đi đâu về đâu để sinh sống, đành ngày ngày đi hái củi, chăn bò, cuốc đất… kiếm bữa cơm qua ngày, chỉ mong sao những lần lên rừng, trời thương khiến họ không “lỡ tay” đụng phải bom mìn còn sót lại lần nữa.
Còn tiếp…
(Kỳ 3: Chuyện kể một thời trúng bom như trúng… số độc đắc)