Cuộc truy bắt tên tướng cướp khát máu của đế chế đá đỏ Quỳ Châu
Đế chế đá đỏ cũng sụp đổ từ khi Vi Văn Phong tra tay vào còng số 8.
Kỳ 2: Bắt sống chủ soái giang hồ Đế chế đá đỏ
Sự hỗn loạn ở Châu Bình (Quỳ Châu, Nghệ An) hơn 20 năm trước, cũng tuân theo một quy luật muôn thủa: kẻ mạnh là người giẫm trên thân xác người khác; để tồn tại, buộc phải chém giết lẫn nhau. Muốn trở thành thủ lĩnh, cai trị cả dải đất nhuốm máu này, giang hồ buộc phải đổ máu.
Và cuối cùng, giang hồ ở “lãnh địa máu” cũng tìm cho mình bá chủ mới, đó là Vi Văn Phong, thường gọi là Phong “trọc”. Tuy nhiên, có thịnh tất có suy, lúc Phong “trọc” tác oai tác quái nhất cũng là thời điểm hắn tra tay vào còng, kéo theo sự sụp đổ của đế chế tàn khốc một thời.
Trước khi cơn sốt đá đỏ nổ ra, Phong “trọc” từng có 2 tiền án về trấn lột, và đang ăn cơm tù. Những ngày trong trại giam, gã bắt thân với một số anh chị khét tiếng, hẹn ngày trở về xã hội sẽ tìm về Quỳ Châu.
Với bản chất khát máu của mình, sau những trận huyết chiến, Phong “trọc” nhanh chóng dẹp yên những đám giang hồ khác để leo lên ngôi bá chủ. Ak, súng ngắn, lựu đạn là những vũ khí bất di bất dịch của tên cướp rừng xanh này.
Những giang hồ cộm cán như Tường “lợn”, Phương “tay trái”, Hà “lỳ”...lần lượt bị khuất phục dưới thủ đoạn tàn bạo và ma mãnh của Vi Văn Phong, dưới sự hỗ trợ đắc lực của Đường “mặt rộ”, tức Nguyễn Văn Đường.
Quá nhiều tội ác, Phong “trọc” rơi vào tầm ngắm của lực lượng công an. Một chuyên án truy bắt tên đầu đảng khét tiếng này được thành lập. Thấy động, hắn nhanh chóng trốn vào rừng sâu cố thủ.
Có nhiều lần, lực lượng công an phát hiên ra tung tích, suýt bắt sống được, gã lại liều lĩnh nổ lựu đạn tìm cách tẩu thoát.
Về sau, cảm thấy nguy cơ luôn cận kề, Vi Văn Phong ở hẳn trong rừng. Hàng ngày, gã vác súng lang thang dọc bờ sông, bất cứ thuyền bè nào qua lại bị bắt gặp, chủ thuyền đành ngon ngọt nộp tiền mãi lộ.
Dân bờ sông khiếp 3 đời nhà gã, chỉ mới nghe tiếng Phong “trọc” đã im thin thít, vâng dạ làm theo mọi yêu cầu, không một ai dám phản kháng.
Nhất là mấy bè gỗ, Phong thấy, lao ra nổ súng cướp trắng. Cướp được gỗ, gã bắt mọi người trên thuyền bốc lên xếp lên bờ. Gặp thuyền khác đến, Phong lại nổ súng, bắt vào mua đám gỗ đó với giá cắt cổ.
Những đồng tiền kiếm được, gã lại nướng hết vào thuốc phiện và gái gú.
Cái lán lợp lá chuối trong rừng chỗ Phong “trọc” buổi tối mò vể ngủ, luôn thường trực 1 khẩu K4, 1 khẩu AK cưa nòng, cưa báng, cùng 2 quả lựu đạn để sẵn bên gối, và gần chục cân đạn dược.
Phía bên kia bờ sông Hiếu, có 1 đệ tử tên Quỳnh dựng lều ngay cạnh sông để canh gác. Chỉ cần thấy động, Phong nhanh chân lủi ngay vào rừng cố thủ.
Đó là tên cướp quá hung hãn và nguy hiểm, việc truy bắt gần như không thể, chưa kể thiệt hại về sinh mạng là chuyện dễ xảy ra. Do đó, lực lượng công an xác định, chỉ có những người địa phương, nói tiếng Thái (Phong dân tộc Thái), may chăng mới có thể tiếp cận được và chờ thời cơ.
Một tổ 4 người bao gồm những thanh niên gan dạ trong vùng Châu Bình được thành lập với nhiệm vụ bắt sống tên tướng cướp khát máu. Trong đó, tổ trưởng là anh Lang Văn Hóa. Thời điểm ấy, anh Hóa mới 27 tuổi.
Anh Hóa vốn là người miền bắc, trước là lính bộ binh. Đến lúc ra quân, cảm thấy mảnh đất Châu Bình là nơi rất dễ làm ăn, anh đưa cả nhà về đó sinh sống. Tuy nhiên mới được thời gian ngắn thì cơn sốt đá đỏ xảy ra.
Một buổi chiều tối cuối tháng 11/1992, 4 thanh niên bôi bẩn mặt mũi, đóng giả làm dân xã hội đi bè trên sông Hiếu. Họ lân la tiến lại gần nơi trú ẩn của chủ soái giang hồ đế chế đá đỏ.
Phong “trọc” đang ngồi trong lán. Thấy người lạ, gã bật dậy nhìn gằm gằm, tay lăm lăm khẩu súng. Tuy nhiên, sau mấy câu xét hỏi, thấy đám thanh niên toàn nói tiếng Thái, nên Phong “trọc” cũng bớt đề phòng. Nhất là sau khi lục lọi đồ đạc,gã cũng chỉ thấy nhóm mang theo mấy bộ quần áo vấy bẩn.
Ngồi nói chuyện chán chê, nhóm thanh niên lạ mặt đứng dậy chào gã, lên thuyền xuôi về phía nam.
Từ đó, những lần sau, thỉnh thoảng chiếc bè chở 4 trinh sát lại xuất hiện và lên lán ngồi tán gẫu với Phong trọc. Lúc thì họ mang rượu thịt ăn nhậu, có lúc còn hút thuốc phiện cùng.
Sau nhiều lần như vậy, nhóm thanh niên dần tạo được sự tin tưởng của tướng cướp. Cũng là lúc, lệnh bắt sống gã được phát ra.
Nửa đêm 1 ngày cuối năm 1992, Phong “trọc” đi mua thuốc phiện vừa về đến lán, ngay lập tức 4 bóng đen phục sẵn bên trong lao ra quật ngã, một cú đấm cực mạnh giáng thẳng vào gáy khiến tướng cướp ngã dúi dụi .Phong chưa kịp hoàn hồn, thì bình thuốc mê đã xịt thằng vào mặt nằm ngất xỉu.
Phía bên kia sông, tên Quỳnh vẫn không hề hay biết có động. Anh em trói nghiến Phong trọc lại, còng tay, bịt mồm. 2 trinh sát đi trước cõng Phong xuyên rừng ra ngoài quốc lộ chờ sẵn.
Do được bố trí, anh Hóa rút súng bắn chỉ thiên. Nghe hiệu lệnh, những trinh sát khác mật phục ở bờ sông nag tức khắc ập vàp lán của tên đệ tử. Quỳnh ú ớ không hiểu chuyện gì đang xảy ra, thì đã thấy mấy gã đi rừng vác dây vào trói nghiến.
Ngoài quốc lộ 48, xe của công an tỉnh đã chờ sẵn, 2 thầy trò tướng cướp lập tức được áp tải lên xe, dông thẳng về đồn.
Giang hồ đá đỏ Quỳ Châu bị bắt, kết thúc chuỗi ngày làm mưa, làm gió ở lãnh địa máu Châu Bình. Đế chế đá đỏ cũng sụp đổ từ khi Vi Văn Phong tra tay vào còng số 8.
Băng cướp rừng xanh nhanh chóng tan rã. Đám đàm em của Phong “trọc” một thời gian ngắn sau cũng thi nhau bị bắt, cho dù đã bỏ trốn đi khắp nơi như Thanh Hóa, Ninh Bình...
Lần đó, Phong bị kết án 7 năm tù. Lúc gã hết án thì cũng là lúc mảnh đất Châu Bình đã bình yên trở lại. Quá tam ba bận, lần này, Phong quyết chí cải tử hoàn lương. Nhưng cũng thật đáng tiếc, quyết tâm trả nợ rừng xanh chưa được bao lâu, thì Phong đã mắc bệnh chết sớm, nghe đâu là bị ung thư gan.
Giờ thì Châu Bình - lãnh địa máu một thời yên bình đến kỳ lạ. Con đường mòn dẫn từ QL 48 vào đồi Tỷ vắng hoe, vắng hoắt. Thi thoảng mới có một vài người đi chăn trâu hay lấy củi trong rừng đi vào con đường này. Ngay cạnh gần Đồi Tỷ, có một công ty khai thác đá quý nhưng tìm mãi mới thấy một vài người đang thơ thẩn chăn trâu.
Kế đó là những chiếc xe tải hoen rỷ bởi dấu ấn của thời gian. Những ngôi nhà với bức tường phủ xanh rêu mốc, dây leo mọc bám chằng chịt. Máy móc, dụng cụ khai thác nằm im một chỗ đã hơn chục năm nay. Cảnh vật hoang sơ, im lìm như minh chứng cho sự "đắp chiếu" lâu năm của một "đại công trường" đá quý một thời vang bóng.
Và câu chuyện về một thời đá đỏ, mãi chỉ còn trong hoài niệm của những người dân nơi đây. Đó là câu chuyện đau thương của hơn 20 năm về trước. Câu chuyện đó, thi thoảng vẫn được những người cao niên trong làng kể lại cho nhau nghe trong những lúc trà dư, tửu hậu, hay những lúc bài xẩm danh tiếng một thời: “Anh đi đào đá đỏ” được ai đó cất lên.