Ấn tượng đọc “Đối thoại cùng người nổi tiếng”, Ký chân dung của nhà văn Nguyễn Hồng Thái, (NXB Văn học, 2018):
Tột cùng văn hóa là con người
Viết bằng trải nghiệm sống (“sống đã rồi hãy viết”) thuộc về những cây bút già dặn trường đời. Nhưng viết bằng trải nghiệm văn hóa thì không phải người cầm bút nào cũng đạt tới trong nghiệp chữ. Theo sát lộ trình viết của nhà báo - nhà văn, Thiếu tướng CAND Nguyễn Hồng Thái 1/3 thế kỷ qua, tôi nhận thấy anh là người không chỉ chỉn chu về chữ nghĩa, hơn thế cháy hết mình trong lao động nghệ thuật, luôn phấn đấu để ngòi bút “chạm” đến được những vỉa tầng sâu nhất của đời sống xã hội, con người dưới ánh sáng của văn hóa.
Đối thoại với những người nổi tiếng để nhìn ở tầm... cao, xa
Trong số 30 bài in trong tập sách, có 4 bài viết về Lãnh tụ Hồ Chí Minh (Bác Hồ qua lời kể của Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hòe về những câu chuyện ngày đầu thành lập nước; Bên mộ bà Hoàng Thị Loan, nghe chuyện về thân mẫu Bác Hồ; Chuyện nhà văn Sơn Tùng gặp người chị ruột Bác Hồ ở làng Sen; Chuyện Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp người anh ruột ở Hà Nội). Hồ Chí Minh là vĩ nhân, danh nhân văn hóa, Lãnh tụ cách mạng dân tộc thời hiện đại. Ở đây, cách viết của Nguyễn Hồng Thái có ưu trội là tránh được cái nhìn “kính nhi viễn chi”, hay chiêm bái. Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc trong công trình Bản sắc văn hóa Việt Nam đã khẳng định, văn hóa Việt Nam kết tinh trong văn hóa Hồ Chí Minh. Nhà thơ Nga hiện đại O.Mandenstam thì ca tụng, Hồ Chí Minh là biểu tượng của văn hóa tương lai... Tiếp cận Lãnh tụ nếu người viết chỉ huy động/dựa vào vốn sống trực tiếp, trong trường hợp này, là thất bại hoàn toàn (vì lẽ anh ta chưa bao giờ được gần Bác Hồ trong không gian và thời gian). Như người ta nói, nhà văn cần cả vốn sống gián tiếp khi viết. Đọc 4 bài viết đầu sách, riêng tôi thấy, Nguyễn Hồng Thái đã tỏ ra “khôn ngoan” khi tựa vào nguồn tư liệu sống đáng tin cậy của những nhân vật là người trong cuộc (Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hòe, nhà văn Sơn Tùng). Riêng tôi tâm đắc với ý tứ mà nhà văn Nguyễn Hồng Thái “cài” vào được từng câu chữ, đó là tinh thần đoàn kết dân tộc, trọng dụng hiền tài để mưu cầu lợi ích chung (“dĩ công vi thượng”), do đó phát huy được nhân tài, vật lực cho cuộc đấu tranh cách mạng dài lâu và gian khổ vì lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đi tới thắng lợi hoàn toàn. Liên hệ tới tình hình đất nước hiện nay sẽ thấy những bài học để đời của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào (có khi “ngàn cân treo sợi tóc”), nếu chúng ta bị chia rẽ thì ắt chuốc lấy thất bại. Chỉ có “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết!” mới có “Thành công, thành công, đại thành công!”.
Bìa sách “Đối thoại cùng người nổi tiếng” |
Đối thoại với những người nổi tiếng ở tầm... gần
Nhưng thế mạnh của Nguyễn Hồng Thái, theo tôi, ở 25 bài còn lại trong sách, là tiếp cận được những người nổi tiếng ở tầm... gần. Nghề báo đã cho anh nhiều cơ hội được tiếp xúc với các tướng lĩnh, nhà khoa học, nghệ sỹ, lương y, nhà giáo. Tôi nghĩ, có lẽ trước hết và sau cùng anh phải cảm ơn nghề báo (dẫu “làm báo để kiếm sống”, dẫu cho thiên hạ cho đó là “nghề nguy hiểm”, thậm chí là “quyền lực thứ tư”,...). Nghề báo giúp anh đi nhiều, tiếp xúc nhiều, biết nhiều. Nhưng từ biết đến hiểu là một khoảng cách rất xa. Cũng như từ hiểu đến cảm xúc cao độ để huy động con chữ có hồn, tạo tác thành văn chương lại là chuyện khác. Văn chương từ xưa tới nay chọn người (“chọn mặt gửi vàng”), chứ người không chọn được văn chương. Không có chuyện cố gắng hay quyết tâm để trở thành nhà văn. Tôi thích nhất bài Nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 50 năm giải phóng Điện Biên. Tôi không bình luận sâu về bài viết xét theo lượng thông tin có tính truyền thông chính thống. Nói tôi riêng thích bài viết này còn có lý do chủ quan. Năm 2004, kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, trường Đại học KHXH&NV (ĐHQG Hà Nội) tổ chức cho các cựu chiến binh một chuyến đi về nguồn. Tôi không phải là cựu chiến binh, nhưng là cán bộ giảng dạy của trường nên may mắn được “ăn theo” đoàn. Đến thành phố Điện Biên Phủ đúng dịp lễ lớn, cảnh sắc thật huy hoàng, không khí thật hân hoan. Năm đó Đại tướng lên Điện Biên Phủ, thăm lại chiến trường xưa. Quân và dân Điện Biên Phủ đón Đại tướng như người ruột thịt từ lâu, từ xa, nay cố hương. Điện Biên Phủ là một “danh từ Việt Nam”, trong tâm cảm bạn bè quốc tế, như Hồ Chí Minh gắn với Việt Nam. Tinh thần chủ động sáng tạo là phẩm chất tuyệt vời của Đại tướng: “Ngày 1/1/1954, trước khi ra mặt trận, tôi lên chào Bác, Bác dặn: “Trận đánh này rất quan trọng, phải đánh thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh. Chú ra mặt trận giao cho chú được toàn quyền quyết định”. Câu chuyện “đánh nhanh thắng nhanh” được Đại tướng chia sẻ: “Tôi thấy đánh nhanh thắng nhanh lúc này là không được”. Giả sử hồi đó ta đánh theo phương châm/ phương án thứ nhất thì chắc chắn xương máu của đồng bào, chiến sỹ sẽ đổ rất nhiều, và đó không phải là “một trận đánh đẹp”. Ai là người hôm qua biết tiếc thương, gìn giữ máu xương đồng bào, đồng chí như Đại tướng? Ai là người biết sinh mệnh là điều quý giá nhất như Đại tướng? Nhân Dân anh minh bất diệt có câu trả lời chính xác! Đọc bài này tôi thích cách tiếp cận thật gần Đại tướng của Nguyễn Hồng Thái: “Tôi tò mò và ngưỡng mộ nhìn đôi bàn tay ông lúc để trên bàn, lúc giơ lên vẽ những đường huyền ảo minh họa thêm cho lời kể của mình mà không phát hiện thấy một điều gì khác biệt nổi trội ở vị Tổng tư lệnh từng chỉ huy giành thắng lợi của trận Điện Biên Phủ năm xưa, khiến cả thế giới cảm phục. Vẫn là đôi bàn tay mười ngón, gân xanh tuổi già đã hiện lên sau làn da trắng nhạt, mười ngón tay đều và thon, mềm mại mà tôi tin bất cứ nhà chiêm tinh, tướng số nào thuộc loại bậc nhất hành tinh này nhìn và đoán ngay rằng, bàn tay của Võ Nguyên Giáp sinh ra chỉ để cầm bút”. Đại tướng xứng danh bậc hào kiệt trong thiên hạ, văn võ song toàn. Nhưng hào kiệt hiếm hoi như lá mùa thu, như sao giữa ban ngày hôm nay. Phải rất gần Đại tướng không phải là khoảng cách vật lý mà là sự tri nhận của cả lý trí sắc bén và sự run bật cảm xúc cao độ khi viết, cũng như cách nhà thơ Tố Hữu viết về bàn tay của Bác Hồ cầm ngọn bút chì đỏ “vạch đường đi từng bước từng giờ” cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam đánh bại hai đế quốc lớn của thế kỷ XX là Pháp và Mỹ. Dung hòa, nhuần nhuyễn giữa lý trí và cảm xúc khi viết là ưu điểm của Nguyễn Hồng Thái trong các bài viết Chuyện nước, chuyện nhà của Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình; Người thư ký suốt đời bên cạnh Bác Hồ; Nhà văn Sơn Tùng, vài điều tôi cảm nhận; Nhà thơ Việt Phương - “Sống là dâng hiến”; Nhà thơ Phạm Tiến Duật - ngọn gió ngàn đã lặng,...
Nói Nguyễn Hồng Thái viết có lý có tình (tình vẫn ưu trội hơn) còn ở chỗ có những người thật sự không nổi tiếng, nhưng dẫu cho họ lặng lẽ, âm thầm kiến tạo văn chương nước nhà bằng tác phẩm thì chính anh có công phát hiện và dựng bia, dẫu chỉ một lần. Đó là trường hợp Nhà văn Đào Xuân Tùng – lặng lẽ lưu danh. Đào Xuân Tùng là đồng tác giả (với Trần Thanh) thiên tiểu thuyết Nhãn đầu mùa (xuất bản 1960), một cuốn sách hiếm hoi có thể đọc lại hơn một lần vì chiều sâu nhân văn và giá trị nghệ thuật của nó (từ đó đến nay trên văn đàn xuất hiện hàng nghìn tiểu thuyết nhưng số phận của chúng thật bi đát, đa số lập tức bị lãng quên sau khi ra mắt). Ở đây ngoài sự công bằng trong đánh giá văn chương, còn là thái độ trân trọng quá khứ, trân trọng đóng góp thầm lặng của những văn nhân chân chính. Tôi gọi đó là phương pháp “khảo cổ học văn chương”. Khảo cổ và chiêu tuyết. Từ Đổi mới (1986) đến nay chúng ta đang hành động theo phương châm tích cực này trên tất cả các lĩnh vự đời sống xã hội, trong đó có văn chương - nghệ thuật ngôn từ.
Chuyện nước chuyện nhà của Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình – một thiên ký sự hay nhất...
Tôi làm nghề giáo nên phạm vi quan hệ xã hội không được rộng như nhà văn Nguyễn Hồng Thái. Tất nhiên. Thâm tâm vẫn cứ nể phục khi đọc tập sách mà tác giả của nó là nhà báo – nhà văn năng động, tài hoa Nguyễn Hồng Thái. Chỉ riêng bài viết về Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, tôi nghĩ, cũng đã đưa tác giả lên hàng những nhà báo – nhà văn viết ký sự chân dung tài hoa hiện nay. Tiếp cận các VIP đã khó - không ai nói là dễ dàng cả - nhưng khó hơn là viết như thế nào để tác phẩm không trở thành công thức, “cho đủ mâm đủ bát” như thiên hạ thường nói bao biện khi không thành công. Chỉ riêng trích ngang của nhân vật đã khiến độc giả hồ hởi quan tâm theo dõi đến cùng, từ câu đầu đến câu cuối cùng bài viết hay (Bà Nguyễn Thị Bình sinh năm 1927, cháu ngoại chí sỹ Phan Chu Trinh, 41 tuổi đã đảm đương chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, hơn 30 năm là nhà hoạt động chính trị có uy tín được nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế nể trọng, nói tiếng Anh và tiếng Pháp thông thạo trong tiếp xúc với bạn bè quốc tế,...). Nhưng tôi thích cái cách tác giả đưa người đọc đến gần nhân vật (xóa hết “khoảng cách sử thi”) bởi: “cái nhìn thẳng, bao dung, ấm áp, nụ cười và phong thái tiếp khách, cách xưng hô “cô – cháu” của bà khiến chúng tôi cảm thấy không còn khoảng cách với vị Phó Chủ tịch Nước. Phút chốc, bà gần gũi như người mẹ, người cô ruột thân thương của đất miền Trung gian khó (...). Có lẽ với một phẩm chất người mẹ như thế mà đến nay dù đã 75 tuổi, nhưng ở đâu bão lụt dân đói khổ, ở đâu có em nhỏ thiệt thòi, trẻ khuyết tật cần sự cưu mang... là ở đó bà Nguyễn Thị Bình có mặt. Một tay chị cả thay mẹ dạy bảo các em nên người; một nữ chiến sỹ cách mạng gần 60 năm hoạt động không ngưng nghỉ, làm Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Giáo dục, Phó Chủ tịch nước, bôn ba hải ngoại tiếp xúc với hàng trăm nguyên thủ quốc gia, nhưng điều mong ước của bà thật giản dị: “Sống lương thiện, sống tốt với mọi người, đó là hạnh phúc”. Con đường hoạt động cách mạng, vươn lên trưởng thành của bà Nguyễn Thị Bình phải chăng là một trong những biểu tượng của khát vọng đấu tranh giành hạnh phúc và được cống hiến của người phụ nữ Việt Nam”. Bài viết dài tới 10 trang nhưng đọc xong, riêng tôi, lại có cái cảm giác còn muốn đọc tiếp. Đó là thành công của sự viết.
Viết bằng trải nghiệm văn hóa
Một nền văn chương lớn phải có căn đế văn hóa. Một nhà văn tài năng phải được “cân đo” bằng các giá trị/phẩm tính văn hóa. Văn hoá nhà văn bao gồm nhiều thành tố. Nhưng theo tôi, quan trọng nhất là ứng xử với tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt. Đang có phong trào nhập cảng, sử dụng tiếng nước ngoài, nhất là tiếng Anh. Cũng đúng trong một thế giới phẳng, khi trái đất là ngôi nhà chung của thế giới. Nhưng trong lĩnh vực văn chương thì vấn đề không đơn giản. Nhà văn viết, tôi nghĩ, trước hết là cho gần 100 triệu người Việt Nam đọc. Vì thế anh phải làm chủ và sáng tạo tiếng Việt. Tác phẩm văn chương cung cấp cho công chúng nghệ thuật những thông tin thẩm mỹ. Nhà văn với trọng trách là những kỹ sư tâm hồn. Tôi muốn nói đến năng lượng mỹ cảm và hàm lượng văn hóa của câu chữ trong văn Nguyễn Hồng Thái, nhà báo không lấn át nhà văn ở Nguyễn Hồng Thái. Tác phẩm của anh rất nhiều thông tin thẩm mỹ (bài về Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một ví dụ). Nói cho cùng cũng có cái căn nguyên của nó. Anh vốn là học sinh chuyên Văn trường Phan Bội Châu (Nghệ An). Vào đại học lại học chuyên ngành Ngôn ngữ (của khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, khóa 23). Tất nhiên anh làm chủ ngôn ngữ về lý thuyết. Nhưng “lý thuyết thì xám còn cây đời mãi mãi xanh tươi”. Tôi thấy anh luôn bấu chặt đời sống, viết theo nguyên tắc “nhúng bút vào sự thật”, vì ý thức được sâu sắc sức mạnh của cái đúng.
Nhà văn Bùi Việt Thắng
Hà Nội, tháng Báo chí, 2019